ThS. Đinh Thùy Dung
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Đầu năm 2017, Thủ tướng Chính phủ “Nguyễn Xuân Phúc” đã nhấn nút khởi động dự án công nghệ cao Vineco tại tỉnh Hà Nam và đặt ra yêu cầu nâng gói tín dụng nông nghiệp công nghệ cao từ 60.000 tỷ đồng lên 100.000 tỷ đồng. Với chính sách mới được ban hành trong nông nghiệp, định hướng sản xuất nông nghiệp sẽ không còn theo phương pháp cũ mà thay vào đó nền nông nghiệp sẽ dần được cởi trói với những định hướng kiến tạo của Chính phủthể hiện khi thay đổi sang nền nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, nền nông nghiệp thông minh kết hợp công nghệ cao và chủ yếu tập trung phục vụ cho nhu cầu thị trường 100 triệu dân của nước ta cũng như xuất khẩu với các ngành hàng chính là rau, củ quả và chăn nuôi,... Thủ tướng cũng khẳng định bài toán này chỉ được giải quyết nếu có sự tham gia của doanh nghiệp cũng như các ngành liên quan dến nông nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên để sử dụng gói 100.000 tỷ đồng này đạt được mục tiêu đề ra, buộc nhà nước và các chủ thể tham gia như doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các nhà khoa học, người nông dân, công nhân,… phải đáp ứng được những điều kiện cơ bản để đầu tư có hiệu quả. Mặt khác, Việt Nam một đất nước được biết đến với nông nghiệp là ngành kinh tế chính, trong đó có tới 90% đất nông nghiệp thuộc sở hữu các hộ nông nghiệp, trang trại và chỉ có 6% thuộc doanh nghiệp. Sau 30 năm đổi mới trong nông nghiệp, nông nghiệp nước ta đã có những chuyển biến tích cực với những con số rất cụ thể như cung cấp sinh kế cho 10 triệu hộ dân nông thôn và 68.2% số dân, đóng góp 22% GDP cho nền kinh tế và 23-35% cho giá trị xuất khẩu (3). Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn chưa thể bắt kịp với những nước cùng trình độ trong khu vực, năng suất chỉ bằng một nửa nếu đem so sánh với Hàn Quốc hay Trung Quốc. Có vấn đề tồn đọng như vậy phải kể đến những nguyên nhân khách quan do dân số tăng nhanh, biến đổi khí hậu xảy ra liên tục, diện tích sử dụng đất cũng trở nên bị thu hẹp hơn và hơn thế nữa là mặc dù nông nghiệp là một ngành chủ chốt và đóng vai trò quan trọng ở nước ta, nhưng việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ và chưa đạt năng suất cao. Trong phạm vi Hội thảo khoa học này, tác giả mạnh dạn trao đổi để làm rõ thêm một số nội dung liên quan đến điều kiện để đầu tư hiệu quả nguồn vốn nhằm đưa Việt Nam trở thành một quốc gia có nền nông
nghiệp công nghệ cao.
- Nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp công nghệ cao thật sự không phải là vấn đề mới với các nước có nền kinh tế phát triển. Đặc biệt, đối với các quốc gia có tài nguyên thiên nhiên không ưu đãi, với họ sự ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp là sự sống còn và tồn vong của quốc gia họ, điển hình là Nhật Bản và Isarel. Khi nhắc đến đầu tư công nghệ cao trong nông nghiệp thì Isarel dường như là một đất nước điển hình với những câu chuyện rất dài trong quá trình đấu tranh chống lại điều kiện khó khăn về đất đai của đất nước họ và cũng là minh chứng cho sự thành công trong đầu tư của Israel, hơn một nửa đất mặn ở đây là khô cằn hoặc nửa khô cằn và chỉ có 20% trong số diện tích đất của họ là có thể trồng trọt được, ngày nay Israel quản lý 95% sản phẩm cung cấp thực phẩm của họ và phần lớn đều nhờ có lợi ích của công nghệ cao trong nông nghiệp. năm 2006 thì nông nghiệp của Israel chỉ đóng góp 3% trong tổng lượng xuất khẩu nhưng năm 2010 thì con số đó đã tăng lên là 4.2%, ngày nay Israel xuất khẩu hơn hơn 2 tỷ USD hoa quả và rau sạch mỗi năm. Kể đến thành công đó phải nhắc tới những công nghệ cao trong quy trình sản xuất sản phẩm nông nghiệp của Israel, đó là công nghệ nhà kính, công nghệ tưới tiêu tự động, công nghệ tưới nhỏ giọt, ứng dụng công nghệ thông tin hay công nghệ sau thu hoạch cùng với nhóm nghiên cứu và phát triển (R&D) đã đưa một đất nước với điều kiện khô cằn, khắc nghiệt trở thành một nước điển hình trong nông nghiệp công nghệ cao của thế giới ( 4). Còn với Nhật Bản thì lại là một câu chuyện với nhưng đặc điểm khác, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, động đất liên miên, đối đầu với nó lại là lòng quả cảm, sự chinh phục thiên nhiên của con người đất nước hoa Anh Đào. Một ví dụ sau cho thấy vấn đề này, Ibaraki một tỉnh nông nghiệp của Nhật Bản, tỉnh có đồng bằng lớn nhất nước, nơi có nhiều cơ sở nghiên cứu, sản xuất nông nghiệp hiện đại. Đây là địa phương sản xuất nông nghiệp đứng thứ hai của Nhật Bản, với dân số chỉ 3 triệu dân nhưng GDP của tỉnh đạt hơn 110 tỷ USD một năm bằng 1/2 GDP của Việt Nam, trong đó đóng góp cho GDP của Ibaraki có đến hơn 50% là nông nghiệp công nghệ cao và các ngành liên quan đến nông nghiệp. Chính điều này đã đưa nền nông nghiệp cùng công nghiệp tiêu dùng, khoa học ứng dụng của Nhật Bản trở thành những câu chuyện thần kỳ trong nhiều thập niên qua. Chính nông nghiệp công nghệ cao của Nhật Bản đã làm phần còn lại của thế giới ngạc nhiên, chỉ với 3% dân số làm nông nghiệp nhưng cung cấp đầy đủ lương thực cho gấn 127 triệu dân của Quốc gia này (1).
Ở Việt Nam, việc bắt nhịp với những xu hướng biến động của thế giới với nền nông nghiệp công nghệ cao cũng là một tất yếu, việc tìm hiểu và và khái quát các nội dung này cũng là một việc cần làm. Hiện cũng chưa có nhiều nghiên cứu và bài viết có liên quan đến nông nghiệp công nghệ cao. Theo Tác giả từ thực tế hoạt động của các quốc gia có nền nông nghiệp công nghệ cao phát triển và qua một số nghiên cứu trong nước như: Đề tài “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất một số loại rau phục vụ nội tiêu và xuất khẩu ở các tỉnh phía Bắc” do TS. Đoàn Xuân Cảnh (Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm) chủ nhiệm, thực hiện trong giai đoạn 2012-2016, đề tài “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ tiên tiến trong nhân giống và sản xuất rau an toàn tại xã Thụy Hương (Chương Mỹ, Hà Nội)” thuộc chương trình KH&CN cấp nhà nước do TS Nguyễn Quốc Hùng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu rau quả - làm chủ nhiệm (5). Tác giả cho rằng “nông nghiệp công nghệ cao” là nền nông nghiệp được ứng dụng kết hợp những công nghệ mới, hiện đại và tiên tiến để sản xuất nông nghiệp như: tự động hoá, công nghệ thông tin, vật liệu mới, công nghệ sinh học và các giống cây trồng,... nhằm nâng cao hiệu quả, gia tăng sản lượng, chất lượng nông sản nhằm phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao hơn của toàn xã hội và hướng tới phát triển theo hướng bền vững.
- Điều kiện để đầu tư có hiệu quả trong nông nghiệp công nghệ cao
Một bài toán luôn đặt ra với mọi quốc gia có nền sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn là làm thế nào để đầu tư một cách hiệu quả trong nông nghiệp công nghệ cao, điều này càng đúng với Việt Nam khi mà việc đầu tư tràn lan, việc thất thoát, lãng phí,… đang hiện diện trong mọi hoạt động, mọi lĩnh vực và đang có xu hướng gia tăng hiện nay. Theo sự tìm hiểu của Tác giả, để đầu tư đạt kết quả cao hay nói cách khác là đạt hiệu quả cao trong nông nghiệp công nghệ cao, chúng ta cần đạt được các điều kiện sau:
Chính sách rõ ràng và ổn định lâu dài: Chính vì những đổi mới trong tư duy và cách thức của công nghệ cao đem lại cho nông nghiệp mà nó được Chính phủcùng các bộ, ban ngành trực thuộc quan tâm cùng đưa ra những chính sách, quyết sách phù hợp để doanh nghiệp nói chung và từng cá nhân nói riêng có thể thuận lợi trong việc tiếp cận và đầu tư vào lĩnh vực đang còn mới mẻ này tại Việt Nam. Trong đó, có những quyết định đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (13) về việc quy hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, trong đó quy định rất rõ về yêu cầu , mục tiêu khi xây dựng một khu công nghệ cao, hay như ngay khi luật công nghệ cao ra đời thủ tướng cũng đã ban hành nhiều chương trình, chính sách nhằm thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp, Chính phủsẽ ưu tiên hỗ trợ (Nghị quyết 575). Theo như Giáo sư Trần Đình Long, chủ tịch hiệp hội giống cây trồng tại Việt Nam trả lời phỏng vấn báo chí trên trang Vietnamnews.vn “khoa học và đời sống” đánh giá về sự phù hợp của nông nghiệp cao đối với thị trường Việt Nam, đã cho biết “nông nghiệp công nghệ cao là một phương pháp trồng trọt hiện đại, làm giảm chi phí đầu vào và tăng giá trị sản phẩm của nông nghiệp trong khi quá trình tạo ra chúng lại có độ an toàn cao và sự thân thiện với môi trường” (6). Khi xem xét đến vấn đề đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao như hiện nay, chúng ta có thể thấy những khúc mắc và những khó khăn phải đói mặt của doanh nghiệp Việt Nam nói chung cũng như người nông dân nói riêng. Cụ thể là, chính sách đầu tư vào nông nghiệp cao chưa phát huy hiệu quả cao, số lượng các doanh nghiệp tham gia vào nông nghiệp còn ở mức hạn chế và đạt những con số khiêm tốn, theo số liệu của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hiện nay chỉ chiếm 1% so với tổng số doanh nghiệp trên cả nước và trong đó có tới 55% doanh nghiệp có vốn đầu tư dưới 5 tỷ đồng và chủ yếu là tập trung khai thác tài ngyên có sẵn như đất đai, còn việc đầu tư vào công nghệ cao còn chưa được nhà nước quan tâm đầu tư một cách bài bản, ứng dụng về công nghệ cao. Thêm vào đó, có tới 96,53% doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam trong nông nghiệp nhưng có tới 75% doanh nghiệp đang sử dụng máy móc hết hạn (7). Mặt khác, việc ổn định có tính lâu dài trong quy hoạch cũng cần phải thực hiện nghiêm ngặt, mục đích sử dụng đất luôn thay đổi và điều chỉnh cũng là một trở ngại trong việc đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao.
Đào tạo và quy chuẩn hóa trong tác nghiệp: Các doanh nghiệp, người nông dân khi tham gia đầu tư vào công nghệ cao trong nông nghiệp cần nắm rõ tình hình và áp dụng đúng hệ thống quy tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong quản lý chất lượng sản phẩm nông nghiệp, bền vững với môi trường và vùng ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, đặt vấn đề “công nghệ cao” làm điều kiện then chốt và chủ yếu. Tận dụng những chính sách ưu đãi của Chính phủvề huy động nguồn vốn đầu tư trong việc đầu tư vào khoa học công nghệ để phục vụ phát triển các khu và vùng ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao. Cần nghiêm túc và triển khai hoạt động đào tạo và phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp cho nông dân, công nhân và những người thực hiện. Cụ thể hơn đó có thể là việc đầu tư vào đào tạo trình độ, nâng cao kĩ năng, tay nghề kinh nghiệm của những người tham gia trong các khu nông nghiệp công nghệ cao. Một vài ví dụ cho biết hiện nay, việc đầu tư cho công nghệ vẫn đang rất cần được quan tâm và đặt lên hàng đầu khi một doanh nghiệp tham gia vào sân chơi của Việt Nam, theo ý kiến của chủ tịch HĐQT của công ty cổ phần giống bò thịt, sữa Yên Phú (Ninh Bình) cho biết vấn đề đang được lo lắng nhất hiện nay là bảo quản thịt bò bởi tại nhiều nước thịt bò có công nghệ được bảo quản trong tủ mát lên đến 2-3 tháng mà thịt vẫn tươi ngon và có màu sắc đẹp mắt trong khi tại Việt Nam chỉ cần từ 3-5 ngày thịt đã bị thâm đen hay có mùi hư hỏng do đó doanh nghiệp rất chủ động muốn được học hỏi để hợp tác đầu tư về công nghệ này trên thế giới. Khoa học công nghệ là một trong những điều kiện đầu tiên và đóng vai trò lớn trong công cuộc giúp nông nghiệp Việt Nam cất cánh.
Tích tụ ruộng đất: Một vấn đề được nhìn thấy rõ ràng hiện nay là công nghệ thì ngày càng phát triển, tân tiến và đổi mới hơn nhưng nguồn tài nguyên thiên nhiên lại là hữu hạn và đang có chiều hướng bị băm nát, sử dụng sai mục đích và ngày trở nên khan hiếm hơn, cụ thể theo như nghiên cứu báo cáo của tiến sỹ Nguyễn Hoài Thu - Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết: “Đất nông nghiệp rất khan hiếm, điện tích đất sử dụng được đã bị khai thác tới hạn cho phép, diện tích đất theo bình quân đầu người chỉ bằng 1/6 so với trung bình các quốc gia khác, diện tích đất sản xuất nhỏ và phần lớn diện tích đất do nhà nước quản lý…” (8). Vậy nên làm thế nào để các doanh nghiệp cho đến người nông dân có thể tham gia vào đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao hay cần có những điều kiện gì để công nghệ cao được đưa vào áp dụng trong nông nghiệp và đem lại hiệu quả như mong muốn? Đây là câu hỏi mà không ít các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách băn khoăn. Theo tác giả, hiệu quả của đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao không thể không tính đến điều kiện này, đây có thể được xem như bài toán quy mô tối ưu trong ứng dụng công nghệ vào nông nghiệp. Chìa khoá thành công của việc này đó là phải biết “gặt hái hiệu quả kinh tế về quy mô, sử dụng công nghệ hiện đại và có một thị trường ổn định”.
Quy hoạch ruộng đất: Điều kiện quyết định chủ yếu tiếp theo có thể được nhận định là quỹ đất sử dụng cho nông nghiệp công nghệ cao như thế nào? Hiện nay thì chúng ta có thể hoàn toàn nhận thấy diện tích đất đang ngày càng trở nên bị thu hẹp do rất nhiều nguyên nhân khách quan và từ tác động của môi trường, dân số tăng nhanh và đô thị hoá cũng dẫn đến việc quỹ đất bị suy giảm, dự kiến dân số nước ta năm 2020 sẽ vào khoảng 100 triệu người. Dân số tăng, nhu cầu về lương thực, thực phẩm cũng sẽ tăng lên rất nhiều. Vậy, để giải quyết song song cả 2 vấn đề là sẽ có bao nhiều sản phẩm thu hoạch được trên 1 ha đất nông nghiệp khi ứng dụng công nghệ cao, vừa tận dụng tối đa diện tích đất sử dụng cho nông nhiệp và cũng đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường về nguồn sản phẩm. Tuy nhiên, khi sản xuất và tích trữ quá nhiều cũng sẽ dẫn đến việc cung vượt quá cầu và bài toán về chính sách và quy hoạch đất để phát triển nông nghiệp lại được đặt ra cho các cấp Chính phủđể giải quyết cân bằng thị trường và ổn định trong thương mại. Nhìn vào các nông trường của tập đoàn Vingroup, có thể sẽ dễ dàng nhận thấy diện tích đất sử dụng cho nông trường ở đây tương đối lớn, tiêu biểu là nông trường ở Tam Đảo lên đến 500 ha và nông trường ở Củ Chi khoảng 136 ha sẽ được đưa vào sử dụng trong tháng 7/2017 (9). Để đầu tư có hiệu quả, đạt năng suất cao và cho thu hoạch đạt mức mong muốn trên thị trường thì các doanh nghiệp, các chủ đầu tư phải tìm được những vị trí địa lí thuận lợi, có thể gần khu công nghệ cao hoặc những nơi có khí hậu thích hợp thuận lợi cho việc trồng trọt, có diện tích đất đạt quy mô lớn và quy hoạch tổng thể, điều này nếu không được tính toán kỹ, có thể phát sinh những xung đột lợi ích giữa các chủ thể quản lý và mục tiêu phát triển trong tương lai tại các khu vực đó.
Nguồn vốn cho đầu tư: Đây có thể coi như một điều kiện có tính chất quyết định cho đầu tư hiệu quả vào nông nghiệp công nghệ cao. Theo một số nghiên cứu cho thấy Nhà nước có 5 nguồn vốn dành cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trong đó có nguồn vốn cho nông nghiệp công nghệ cao, bao gồm: Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tài chính vi mô và tín dụng ngân hàng. Dựa vào đồ thị 1 chúng ta có thể dễ nhận thấy số vốn được đầu tư cho nông nghiệp ngày một tăng lên qua các năm, từ đó cũng thấy được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước đối với ngành kinh tế chính của cả nước ta. Từ một nghiên cứu của Viện Chiến lược chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn, đất đai và tín dụng là những rào cản chính của DN khi đầu tư vào nông nghiệp. Nếu về đất đai có 63% DN kêu khó khăn, thì có đến 70% DN kêu khó khăn khi tiếp cận tín dụng. Tuy nhiên, với chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về tạo điều kiện phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thì đã có những dự án về NNCNC được khởi động tại phía Bắc. Với những quyết sách cụ thể của Thủ tướng, kỳ vọng có những DN sắn sàng mở rộng đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao (2). Để có thể đầu tư cho khoa học công nghệ hay để phát triển nông nghiệp công nghệ cao thì các nhà đầu tư, các doanh nghiệp các cá thể phải suy nghĩ đến vấn đề vốn đầu tư ban đầu. Hiện nhà nước phối hợp cùng các cơ quan chức năng liên quan như các ngân hàng đã có những gói ưu đãi hỗ trợ cho việc vay vốn để đầu tư nông nghiệp công nghệ cao tuy nhiên vẫn còn có ràng buộc và khó khăn nhất định.Ví dụ về mô hình sản xuất rau thuỷ canh áp dụng công nghệ cao ở Lâm Đồng đã cho thấy vấn đề này: 1 cá nhân có kinh phí đầu tư khá lớn, lên đến mỗi ha vào khoảng 8 tỷ đồng, đi kèm với đó là rất nhiều những máy móc thiết bị phụ trợ khác, với con số vốn lớn như vậy, điều kiện đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao cũng đòi hỏi ràng buộc với số vốn đầu tư ban đầu là nhất định, tuy nhiên nhờ áp dụng công nghệ này mà sản phẩm cho thu hoạch được hàng năm đạt năng suất tương đối cao, ít phải chăm sóc và không phải sử dụng đến những loại thuốc bảo quản khác (10). Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao thực sự cần một nguồn vốn rất lớn, giá trị đầu tư để sản xuất nông nghiệp công nghệ cao có khi còn cao hơn giá trị của đất hiện nay tuy nhiên vấn đề cho vay vốn để đầu tư nông nghiệp tại thời điểm hiện nay thì tài sản đảm bảo để vay vốn chưa được ngân hàng chấp nhận do đó nhu cầu vốn trong nông nghiệp đang rất bế tắc. Để doanh nghiệp tiếp cận được với chích sách hỗ trợ khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn do bộ kế hoạch và đầu tư trình thủ tướng với mức hỗ trợ thấp nhất là 200 triệu và cao nhất là 10 tỷ đồng thì điều kiện là doanh nghiệp phải có doanh thu năm trước đạt tối thiểu bằng 10 lần mức hỗ trợ (1 tỷ đồng), dự án có doanh thu tối thiểu 500 triệu đồng/ha/năm đối với trồng trọt và nuôi trồng thuỷ hải sản đạt 1 tỷ đồng/ha/năm.
Hình 1. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo ngành kinh tế
35
30
25
20
15
10
5
0
2005 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Sơ
bộ 2015
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (đơn vị: nghìn tỷ đồng)
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nghiên cứu thị trường: Bên cạnh việc tiếp cận nguồn vốn với nông nghiệp công nghệ cao, vấn đề đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường chưa được quan tâm chặt chẽ, chuyện những xe tải xếp hàng nối đuôi nhau tại các cửa khẩu với hàng hoa quả mau hỏng, giá cao su giảm hay những doanh nghiệp thủy hải sản phá sản, thường xuyên được các phương tiện thông tin đại chúng đề cập trong thời gian vừa qua là một hồi chuông cảnh tỉnh cho sự điều tiết của Nhà nước cũng như sự hiểu biết của các doanh nghiệp, các hộ nông dân trong hoạt động thương mại. Sản xuất nhỏ thiếu khôn ngoan luôn phải đối mặt với thị trường cạnh tranh rộng lớn, sau nhiều năm thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng lĩnh vực nông nghiệp của cả nước nói chung vẫn là nền sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, thực lực kinh tế yếu điều này dẫn đến các chủ thể tham gia thị trường nông nghiệp quốc tế không đủ sức phòng chống các rủi ro của thị trường. Việc không kịp thời xử lý thông tin, sự phản ứng thụ động theo thị trường để điều chỉnh giá dẫn đến tình trạng sản phẩm có lúc ế thừa, có lúc khan hiếm, nông dân chỉ biết sản xuất cầm chừng, hoặc chuyển đổi cơ cấu theo lợi ích trước mắt, chứ
chưa thể nhìn xa trông rộng hơn. Việc thực thi chủ trương cánh đồng mẫu lớn vẫn chưa đủ mạnh và hấp dẫn đối với người nông dân. Những khó khăn về đầu ra của sản phẩm và tình trạng lợi nhuận thấp dẫn đến hiện tượng nông dân không thiết tha với sản xuất trên ruộng đất của mình đang trở thành vấn đề tác động tiêu cực đến nông nghiệp phát triển bền vững. Điều này cho thấy cơ cấu nông nghiệp công nghệ cao theo hướng nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm quan trọng nhất lại chính là đầu ra của các sản phẩm đó. Nếu muốn có chỗ đứng trong chuỗi giá trị toàn cầu, phải đầu tư cho marketing, cho nghiên cứu thi trường, nếu không xuất khẩu khó khăn và kể cả thị trường trong nước cũng khó tiếp cận.
- Kết luận
Qua nghiên cứu có tính khởi đầu về điều kiện để đầu tư hiệu quả vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao như: chính sách, tích tụ, quy hoạch ruộng đất, đào tạo quy chuẩn, nguồn vốn, nghiên cứu thị trường, một vấn được đặt ra ở đây là ai là người làm, làm ra sao và làm như thế nào vẫn là câu hỏi lớn xuyên suốt quá trình này. Để trả lời câu hỏi này, Tác giả bài viết muốn nhắc lại lời của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: “Nông dân là nguồn lực lớn trong nông nghiệp cần phải được tập trung đầu tư phát triển, nông nghiệp công nghệ cao hiện nay chủ yếu vẫn là doanh nghiệp đóng vai trò chính và đồng hành cùng Chính phủvậy làm thế nào để người nông dân cũng có thể tham gia, muốn nông dân đạt kết quả tốt cũng như có đầu ra thì buộc phải đào tạo, giúp họ có nhận thức rõ ràng về công nghệ cao, dạy kĩ năng sử dụng máy móc thiết bị hiện đại cho người nông dân, dần xoá bỏ tư duy cũ “con trâu đi trước, cái cày theo sau”, bài viết cũng muốn trích lời GS. Võ Xuân Tòng để làm sáng tỏ vấn đề này: “Kỹ thuật cao hiện nay chưa được sử dụng hết, mười ông nông dân chỉ có một hai ông áp dụng, tám ông kia vẫn dung kĩ thuật cũ” (Nguồn 12). Hay ngay như quốc gia mạnh về nông nghiệp công nghệ cao như Israel hiện nay, vấn đề thiếu hụt về kĩ sư, chuyên gia kĩ thuật để làm công nghệ cao cũng đang là một vấn đề cần giải quyết, bởi vậy nên muốn để sản phẩm của nông nghiệp công nghệ cao có đầu ra tốt và đảm bảo thì vấn đề đầu tư có hiệu quả vào nông nghiệp công nghệ cao phải có chính sách, các bước đi và các điều kiện được xem xét và giải quyết một cách triệt để.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Cổng thông tin tư vấn Xuất khẩu lao động Nhật Bản (11/2016), Làm nông nghiệp ở Nhật Bản rất tiên tiến và phát triển.
- Hiệp hội các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp (2/2017), Đường lớn đã mở với nông nghiệp công nghệ cao.
- Vnreview.vn/ (14/2/2017), Lời giải từ công nghệ cao.
- FactsaboutIsarel.uk, Agriculture in Isarel has been long hard struggle
- Baomoi.com (2017), Một số đề tài nghiên cứu ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao
- Vietnamnews.vn (27/3/20117), High tech agriculture should suit Vietnam condition
- Enternews.vn (2017), Vì sao ít doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp.
- Dwrm.gov.vn, Phát triển nông nghiệp những thách thức về tài nguyên và môi trường
- Vov.vn (11/01/2017), Cần khơi thong vốn đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao.
- Dantri.com.vn (10/04/2017), Hỗ trợ tối đa 10 tỷ đồng cho một dự án nông nghiệp công nghệ cao.
- Rfa.org, Dự án nông nghiệp công nghệ cao sẽ tới đâu.
- Thuvienphapluat.vn (04/05/2015), Quyết định về việc phê duyệt tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.