ThS. Phạm Trần Minh Trang
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Ở Việt Nam cũng như các nước đang phát triển, nông nghiệp công nghệ cao được coi là một lộ trình quan trọng giúp thoát khỏi đói nghèo. Tuy nhiên, tỉ lệ áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp vẫn còn thấp ở hầu hết các nước này. Nghiên cứu này nhằm mục đích làm sáng tỏ những yếu tố tiềm ẩn ảnh hưởng đến việc áp dụng công nghệ cao vào nông nghiệp tại Việt Nam. Chúng ta sẽ xem xét các nghiên cứu trước đây về việc áp dụng công nghệ cao từ các nước đang phát triển khác. Từ các nghiên cứu đó, các yếu tố về công nghệ, kinh tế, thể chế và nhân tố đặc thù của con người được coi là các yếu tố quyết định việc áp dụng công nghệ vào nông nghiệp. Nghiên cứu đề xuất các hướng nghiên cứu trong tương lai về việc áp dụng công nghệ qua việc mở rộng phạm vi các biến bao gồm nhận thức của nông dân đối với công nghệ mới.
- Đặt vấn đề
Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, tăng cường an ninh lương thực, xoá đói giảm nghèo và phát triển khu vực nông thôn. Đây là nguồn thu nhập chính cho khoảng 2,5 tỉ người ở các nước đang phát triển (FAO, 2003) và cho khoảng 23,26 triệu người tại Việt Nam (Tổng cục thống kê, 2015). Các hộ nông dân nhỏ được xác định là đối tượng phát triển quan trọng nhằm đạt được các mục tiêu phát triển Thiên niên kỉ, một trong số đó là cắt giảm một nửa số người nghèo đói vào năm 2015 (World Bank, 2008). Tuy nhiên, phần lớn các nông hộ nhỏ dựa vào các phương pháp sản xuất truyền thống và điều này đã làm giảm mức năng suất. Chẳng hạn, 70% sản lượng ngô ở hầu hết các nước đang phát triển là từ các nông hộ nhỏ sử dụng các phương pháp sản xuất truyền thống (Muzari và cộng sự, 2012). Năng suất cây trồng của các hộ nông dân này thường rất thấp do giống cây địa phương được nông dân sử dụng có năng suất thấp, hầu hết ngô được trồng trong điều kiện mưa và việc tưới cây chỉ được sử dụng ở một vài khu vực giới hạn, ít sử dụng phân bón và không sử dụng đầy đủ biện pháp kiểm soát sâu bệnh có hại (Murazi và cộng sự, 2012; Shao, 1996). Điều này đã gây ra rất nhiều cuộc thảo luận về nhu cầu tăng năng suất và tính bền vững trong nông nghiệp trên toàn cầu nhưng có quá ít thông tin về các biện pháp cụ thể để đạt được mục tiêu này.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNN), trong giai đoạn 2001-2011, tuy các hoạt động khoa học công nghệ đóng góp 35% tổng GDP của ngành nhưng việc ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản vẫn còn hạn chế. Theo báo cáo của Boston Consulting
Group (Crop Farming, 2030), xu hướng phát triển nông nghiệp cho tới năm 2030 nhấn mạnh sự thay đổi trong thực tiễn nuôi trồng và công nghệ nuôi trồng chính xác sử dụng số liệu tới mức từng mét vuông để tối ưu hoá mức tiêu thụ đầu vào và điều chỉnh để thích ứng với các đặc điểm biến đổi. Theo dự kiến, tổng nhu cầu lương thực trên toàn thế giới sẽ tăng 70% vào năm 2050 (OECD, 2014). Tính cấp bách toàn cầu về nhu cầu lương thực tăng cao nhấn mạnh sự cần thiết của cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp. Cuộc cách mạng này phần lớn sẽ được thúc đẩy bởi những đổi mới trong các công nghệ phát triển nông nghiệp bền vững.
Tăng năng suất nông nghiệp là việc quan trọng để đáp ứng được nhu cầu đang gia tăng và do đó, cần phải kiểm tra hiệu quả gần đây trong các trường hợp áp dụng công nghệ hiện đại trong nông nghiệp (Challa, 2013). Công nghệ cao trong nông nghiệp bao gồm tất cả các kĩ thuật và thực tiễn cải tiến có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của sản lượng nông nghiệp (Jain và cộng sự, 2009). Theo Loevinsohn và cộng sự (2013), các lĩnh vực phổ biến nhất của phát triển công nghệ và cải tiến giống cây trồng bao gồm việc phát triển các giống mới và chế độ quản lý các nguồn tài nguyên như đất đai, sâu bệnh, thuỷ lợi và nguồn nước. Nhờ nâng cao mối quan hệ giữa đầu ra và đầu vào, công nghệ mới có xu hướng nâng cao sản lượng và giảm chi phí sản xuất trung bình, dẫn đến thu nhập từ nông nghiệp tăng mạnh (Challa, 2013). Ứng dụng các công nghệ nông nghiệp mới giúp tăng thu nhập, giảm đói nghèo, cải thiện tình trạng dinh dưỡng, giảm giá thực phẩm, tăng cơ hội việc làm cũng như thu nhập cho người lao động không có đất (Katungi, 2010). Việc áp dụng các công nghệ cải tiến này được cho là yếu tố chính trong thành công của cuộc cách mạng xanh tại các nước Châu Á (Ravallion và Chen, 2004; Katungi, 2010).
Áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp giúp tăng cường sản xuất lương thực là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với an ninh lương thực và phát triển kinh tế. Điều này đã làm cho động lực thay đổi kĩ thuật trong nông nghiệp trở thành một lĩnh vực nghiên cứu mạnh mẽ kể từ đầu thế kỉ XX (Loevinsohn và cộng sự, 2013). Những công nghệ này đặc biệt phù hợp với các hộ nông dân nhỏ ở các nước đang phát triển vì họ gặp phải nhiều hạn chế do vậy họ trở thành đối tượng ưu tiên cho các nỗ lực phát triển. Chẳng hạn, những hộ nông dân này sống và làm ruộng ở các khu vực có lượng mưa thấp và thất thường, đất đai thiếu màu mỡ. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng, hệ thống thuỷ lợi, đầu vào và đầu ra, dịch vụ tín dụng cũng như dịch vụ khuyến nông có khuynh hướng phát triển kém tại những khu vực này (Muzari và cộng sự, 2012). Trong nhiều năm qua, có nhiều nghiên cứu về đổi mới và áp dụng công nghệ mới ở các nước đang phát triển được tiến hành tuy nhiên nó thường được áp dụng chậm và không được tiếp nhận (Bandiera và Rasul, 2010; Simtowe, 2011). Vì vậy, bài viết này sẽ cố gắng xem xét các nghiên cứu khác nhau về việc áp dụng các công nghệ mới và các yếu tố chịu trách nhiệm cho tỉ lệ áp dụng công nghệ thấp.
- Cơ sở lý thuyết
Nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa về công nghệ theo những cách khác nhau.
Loevinsohn và cộng sự (2013) định nghĩa công nghệ là phương tiện và phương pháp sản xuất hàng hoá và dịch vụ, bao gồm các phương pháp tổ chức cũng như kĩ thuật. Công nghệ là kiến thức/thông tin cho phép một số nhiệm vụ được thực hiện dễ dàng hơn, một số dịch vụ được hoàn thành hoặc việc sản xuất sản phẩm (Lavison, 2013). Bản thân mục đích của công nghệ là nhằm cải thiện một tình huống cụ thể hoặc thay đổi trạng thái hiện tại sang một trạng thái mong muốn. Nó giúp người sử dụng làm việc dễ dàng hơn và giúp tiết kiệm thời gian và lao động (Bonabana-Wabbi, 2002).
Việc áp dụng công nghệ cũng được các nhà nghiên cứu định nghĩa bằng các cách khác nhau. Loevinsohn và cộng sự (2013) định nghĩa áp dụng công nghệ là một sự kết hợp của một công nghệ mới vào thực tiễn và thường được tiến hành qua một giai đoạn “cố gắng”. Trích dẫn nghiên cứu của Feder, Just và Zilberman (1985), Bonabana-Wabbi (2002) định nghĩa việc áp dụng là một quá trình mà một cá nhân chuyển từ việc biết đến sự đổi mới sang việc sử dụng chúng. Việc áp dụng được đánh giá theo hai tiêu chí là tỉ lệ áp dụng và tần suất áp dụng. Tỉ lệ áp dụng là tốc độ mà người nông dân áp dụng công nghệ đổi mới, cân nhắc tới yếu tố thời gian. Tần suất áp dụng là mức độ sử dụng một công nghệ trong bất kì khoảng thời gian nào (Bonabana-Wabbi, 2002).
- Các yếu tố quyết định đến việc áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp
Có rất nhiều cơ sở lý thuyết về yếu tố xác định việc áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Theo Loevinsohn và cộng sự (2013), quyết định của nông dân về việc có áp dụng không và áp dụng công nghệ mới như thế nào được xác định bởi sự tương tác giữa các đặc tính của công nghệ và tập hợp các điều kiện và hoàn cảnh khác. Quyết định áp dụng công nghệ mới thường là kết quả của việc so sánh lợi ích không chắc chắn của sáng chế mới này với chi phí không chắc chắn khi áp dụng chúng (Hall và Khan, 2012). Hiểu biết về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng công nghệ là cần thiết cho các nhà kinh tế nguyên cứu các yếu tố quyết định sự tăng trưởng và cho các nhà hoạch định và phổ biến công nghệ mới (Hall và Khan, 2002).
Các yếu tố kinh tế liên quan đến việc áp dụng công nghệ bao gồm các đặc điểm cá nhân, thông tin không hoàn hảo, mức độ rủi ro, không chắc chắn, ràng buộc về thể chế, tính sẵn có của đầu vào và cơ sở hạ tầng (Feder và cộng sự, 1985; Koppel, 1994; Foster và Rosenzweig, 1996; Kohli và Singh, 1997; Rogers, 2003 và Uaiene, 2009). Một vài nghiên cứu gần đây cho thấy yếu tố về mạng xã hội và học hỏi cũng góp phần quyết định việc áp dụng công nghệ (Uaiene, 2009). Một số nghiên cứu phân loại các yếu tố này thành các loại khác nhau. Ví dụ, Akudugu và cộng sự (2012) đã nhóm các yếu tố quyết định việc áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp thành ba loại: kinh tế, xã hội và thể chế. Kebede và cộng sự (1990) đã phân loại rộng rãi các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng công nghệ vào ba nhóm xã hội, kinh tế và thể chất. McNamara, Wetzstein và Douce (1991) đã phân loại các yếu tố này thành đặc điểm của nông dân, cơ cấu trang trại, đặc điểm thể chế và cơ cấu quản lý. Nowak (1987) chia thành các nhóm: thông tin, kinh tế và sinh thái; trong khi Wu và Babcock (1998) phân loại chúng theo nguồn nhân lực, sản xuất, chính sách và nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Mặc dù có nhiều cách phân loại các yếu tố quyết định việc áp dụng công nghệ, việc phân loại được thực hiện phù hợp với công nghệ đang được điều tra, mức độ ưu tiên của nhà nghiên cứu, hoặc thậm chí phù hợp với nhu cầu của khách hàng (Bonabana- Wabbi, 2002). Ví dụ, trình độ học vấn của một người nông dân được một số nhà nghiên cứu phân loại là vốn con người trong khi đó một số khác nhận định nó là một yếu tố đặc thù thuộc về hộ gia đình. Nghiên cứu này sẽ xem xét các yếu tố xác định việc áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp bằng cách phân loại chúng thành các yếu tố công nghệ, kinh tế, thể chế và các yếu tố thuộc về hộ gia đình. Điều này sẽ cho phép đánh giá sâu về cách thức từng yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng công nghệ.
- Yếu tố công nghệ
Khả năng người nông dân được thử nhiệm trên quy mô nhỏ trước khi áp dụng trên toàn bộ trang trại là một yếu tố chính quyết định việc áp dụng công nghệ (Doss, 2003). Khi nghiên cứu các yếu tố quyết định việc sử dụng hạt giống chống cỏ tính năng diệt cỏ (Imazapyr-resistant maize) ở Đông Kenya, (Mignouna và cộng sự, 2011) cho biết đặc điểm của công nghệ đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định áp dụng. Họ lập luận rằng những người nông dân nhận thức được công nghệ phù hợp với nhu cầu của họ và tương thích với môi trường có khả năng áp dụng vì họ coi đây là một khoản đầu tư tích cực. Nhận thức của người nông dân về hiệu suất của công nghệ ảnh hưởng đáng kể đến quyết định áp dụng chúng. Nghiên cứu của Adesina và Zinnah (1993) chỉ ra rằng sự nhận thức của nông dân về đặc tính của giống gạo hiện đại đã có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định của họ. Một kết quả tương tự cũng được báo cáo bởi Wandji và cộng sự (2012) khi nghiên cứu nhận thức của nông dân đối với việc áp dụng công nghệ nuôi trồng thuỷ hải sản ở Cameroon. Nghiên cứu của họ chỉ ra rằng nhận thức của nông dân về nuôi cá đã tạo điều kiện cho sự phát triển của nó. Vì vậy, điều quan trọng là đối với bất kì một công nghệ nào được giới thiệu cho nông dân, người nông dân nên tham gia đánh giá để tìm ra sự phù hợp với hoàn cảnh của bản thân (Karugia và cộng sự, 2004).
- Yếu tố kinh tế
Quy mô trang trại có thể ảnh hưởng đến và bị ảnh hưởng bởi các yếu tố liên quan đến việc áp dụng công nghệ mới (Lavison, 2013). Một số công nghệ phụ thuộc vào quy mô bởi vì tầm quan trọng của quy mô trang trại trong việc áp dụng công nghệ (Bonabana-Wabbi, 2002). Nhiều nghiên cứu đã cho thấy mối liên quan tích cực giữa quy mô trang trại và việc áp dụng công nghệ mới (Kasenge, 1998; Gabre-Madhin và Haggblade, 2001; Ahmed, 2004; Uaiene và cộng sự, 2009; Mignouna và cộng sự, 2011). Nông dân sở hữu quy mô trang trại lớn hơn có thể sẽ áp dụng công nghệ mới vì họ có thể cống hiến một phần đất của họ để thử nghiệm công nghệ mới không giống với những nông dân có quy mô trang trại nhỏ hơn (Uaiene và cộng sự, 2009). Ngoài ra, các công nghệ sử dụng thiết bị cơ giới hoá hoặc động cơ máy kéo đòi hỏi quy mô lớn để có thể đảm bảo lợi nhuận (Feder, Just và Zilberman, 1985).
Mặt khác, một số nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng tiêu cực của quy mô trang trại đến việc áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Người dân có quy mô trang trại nhỏ có thể được khuyến khích áp dụng một số công nghệ như là tối đa hoá nguồn lực lao động hay công nghệ tiết kiệm đất. Những người nông dân có quy mô trang trại nhỏ có thể áp dụng công nghệ tiết kiệm diện tích sử dụng đất như công nghệ nhà kính như là một biện pháp thay thế cho giúp gia tăng sản lượng nông nghiệp (Yaron, Dinar và Voet, 1992; Harper và cộng sự, 1990). Các nghiên cứu khác đã chỉ ra mối quan hệ lỏng lẻo hoặc trung lập với việc áp dụng công nghệ. Ví dụ, Grieshop và cộng sự (1988); Ridgley và Brush (1992), Waller và cộng sự (1988), Mugisa-Mutetikka và cộng sự (2000); Bonabana-Wabbi (2002) và Samiee và cộng sự (2009) kết luận rằng quy mô trang trại của hộ dân không ảnh hưởng đến việc áp dụng phương pháp quản lý dịch bệnh tổng hợp (IPM), phương pháp này có thể được tiến hành trên bất kì quy mô trang trại nào. Kariyasa và Dewi (2011) cũng nhận thấy rằng việc mở rộng quy mô trang trại không có ảnh hưởng đáng kể đến xác suất áp dụng công nghệ quản lý nông nghiệp tích hợp.
- Lợi ích thuần của người nông dân
Yếu tố không kém phần quan trọng quyết định việc áp dụng công nghệ mới trong nông nghiệp là lợi ích thuần của nông dân từ việc áp dụng công nghệ, bao gồm tất cả các chi phí sử dụng công nghệ mới (Foster và Rosenzweig, 2010). Chi phí của việc áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp được coi là một trở ngại trong việc áp dụng công nghệ mới. Nghiên cứu do Makokha và cộng sự (2001) về các yếu tố quyết định việc sử dụng phân bón trong canh tác ngô tại huyện Kiambu, Kenya cho thấy chi phí lao động và các chi phí đầu vào cao, không có đầu ra và không rõ thời gian thu hoạch tạo ra những trở ngại lớn cho việc sử dụng phân bón. Theo nghiên cứu của Ouma và cộng sự (2002), chi phí thuê lao động là một trong số các yếu tố khác hạn chế việc sử dụng phân bón và giống lai hạt ở Embu Kenya. Wekesa và cộng sự (2003) khi phân tích các yếu tố quyết định việc sử dụng giống ngô lai ở các vùng đất thấp ven biển Kenya cho thấy chi phí cao và không có hạt giống là một trong những yếu tố khác giải thích cho tỉ lệ áp dụng công nghệ còn thấp.
- Thu nhập phi nông nghiệp
Thu nhập phi nông nghiệp đã được chứng minh có ảnh hưởng vô cùng tích cực đến việc áp dụng công nghệ. Lý do chủ yếu là hoạt động phi nông nghiệp đóng vai trò chiến lược quan trọng giúp người nông dân vượt qua rào cản tín dụng mà họ đang phải đối mặt ở nhiều nước đang phát triển (Reardon và cộng sự, 2007). Thu nhập phi nông nghiệp là nguồn thu thay thế cho vốn vay của các nền kinh tế nông nghiệp nơi thị trường tín dụng thiếu hụt (Ellis và Freeman, 2004; Diiro, 2013). Theo Diiro (2013), thu nhập phi nông nghiệp dự kiến sẽ cung cấp cho nông dân vốn để mua vật tư nông nghiệp đầu vào giúp nâng cao năng suất như giống mới và phân bón. Ví dụ, trong nghiên cứu về tác động của thu nhập phi nông nghiệp đối với mức độ áp dụng các giống ngô cải tiến và năng suất ngô thu hoạch tại Uganda, Diiro (2013) cho biết mức độ áp dụng công nghệ và chi tiêu mua sắm đầu vào cao hơn đáng kể giữa các hộ gia đình có thu nhập phi
nông nghiệp và các gia đình không có thu nhập phi nông nghiệp. Tuy nghiên, không phải tất cả các công nghệ đều cho thấy mối quan hệ tích cực giữa thu nhập phi nông nghiệp và việc áp dụng công nghệ đó. Một số nghiên cứu về công nghệ sử dụng nhiều lao động đã cho thấy mối quan hệ trái chiều giữa thu nhập phi nông nghiệp và việc áp dụng công nghệ. Theo Goodwin và Mishra (2004) việc theo đuổi thu nhập phi nông nghiệp có thể làm giảm việc áp dụng công nghệ hiện đại do số lao động gia đình được phân công làm nông giảm đi đáng kể.
Yếu tố thể chế
- Tổ chức xã hội
Tham gia vào một tổ chức xã hội sẽ giúp nâng cao sự tin tưởng, ý tưởng và trao đổi thông tin, trau dồi vốn kiến thức xã hội (Mignouna và cộng sự, 2011). Người nông dân ở trong một tổ chức xã hội có thể học hỏi nhau về lợi ích và cách sử dụng những công nghệ mới. Uaiene và cộng sự (2009) cho thấy hiệu quả của mạng lưới xã hội rất quan trọng đối với các quyết định cá nhân, và nhất là trong bối cảnh đổi mới nông nghiệp khi người nông dân sẵn sàng chia sẻ thông tin và học hỏi lẫn nhau. Nghiên cứu tầm ảnh hưởng của tổ chức cộng đồng trong việc áp dụng công nghệ ghép chuối mới tại Uganda, Katungi và Akankwasa (2010) cho thấy người nông dân tham gia nhiều các tổ chức cộng đồng này có xu hướng tham gia vào việc học hỏi về công nghệ và vì vậy nó làm tăng khả năng họ sẽ áp dụng công nghệ đó.
Mặc dù có ảnh hưởng tích cực với việc áp dụng công nghệ, các tổ chức cộng đồng này cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực như là vấn đề về hành vi ăn theo (free-rider problems). Foster và Rosenzweig (1995) khi nghiên cứu việc áp dụng các công nghệ Xanh tại Ấn Độ chỉ ra việc học từ mạng lưới xã hội làm tăng khả năng sinh lời từ việc áp dụng công nghệ mới, tuy nhiên người nông dân dường như đang hưởng lợi miễn phí từ các kinh nghiệm đắt giá từ người hàng xóm của họ. Bandiera và Rasul (2002) cho thấy, việc học từ bên ngoài có thể tạo ra các hiệu ứng trái chiều, càng có nhiều người tham gia thử nghiệm công nghệ mới, lợi ích của việc tham gia vào cộng đồng này càng tăng lên, đồng nghĩa với việc càng có nhiều người hưởng lợi miễn phí từ việc ăn theo kinh nghiệm của người khác. Do những ảnh hưởng mâu thuẫn này, Bandiera và Rasul (2002) đã đưa ra một đường cong hình chữ U thể hiện việc áp dụng công nghệ của mỗi cá nhân, hiệu ứng mạng chỉ mang ý nghĩa tích cực khi tỉ lệ áp dụng thấp, nó sẽ đổi chiều khi tỉ lệ áp dụng công nghệ tăng cao.
- Thu thập thông tin về công nghệ mới
Thu thập thông tin về một công nghệ mới là một yếu tố khác quyết định việc áp dụng công nghệ. Yếu tố này cho phép nông dân tìm hiểu về sự tồn tại cũng như việc sử dụng công nghệ có hiệu quả và tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng nó. Người nông dân chỉ áp dụng công nghệ mà họ có hiểu biết về nó. Tiếp cận thông tin về công nghệ làm người dân chắc chắn hơn về hiệu suất của công nghệ; do đó họ có thể thay đổi đánh giá chủ quan của cá nhân sang đánh giá khách quan hơn (Caswell và cộng sự, 2001; Bonabana-Wabbi, 2002).
Việc tiếp cận thông tin cũng có thể dẫn đến việc quyết định không áp dụng công nghệ. Ví dụ, khi kinh nghiệm về một công nghệ cụ thể còn hạn chế trong cộng đồng, nhiều thông tin nhiễu loạn sẽ gây ra thái độ tiêu cực về cách áp dụng nó (Bonabana- Wabbi, 2002). Vì vậy, điều quan trọng là đảm bảo thông tin tin cậy, nhất quán, chính xác. Nông dân cần biết sự tồn tại của công nghệ, lợi ích của nó và cách sử dụng để họ có thể dễ dàng áp dụng nó.
- Tiếp cận các dịch vụ khuyến nông
Việc tiếp cận các dịch vụ khuyến nông cũng được coi là một khía cạnh quan trọng trong việc áp dụng công nghệ. Nông dân thường được thông báo về công nghệ mới, việc sử dụng hiệu quả và lợi ích của nó thông qua các đại lý khuyến nông. Đại lý mở rộng hoạt động như một liên kết giữa các nhà nghiên cứu công nghệ và người sử dụng công nghệ đó. Điều này giúp giảm chi phí giao dịch khi chuyển giao thông tin về công nghệ mới cho nhiều người dân (Genius và cộng sự, 2010). Các đại lý khuyến nông thường hướng đến những người nông dân mà có sức ảnh hưởng trong cộng đồng tại khu vực đó (Genius và cộng sự, 2010). Nhiều tác giả cũng chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa các dịch vụ khuyến nông và việc áp dụng công nghệ.
- Tiếp cận tín dụng
Yếu tố tiếp cận tín dụng cũng là góp phần kích thích việc áp dụng công nghệ (Mohamed và Temu, 2008). Các nhà khoa học tin rằng việc tiếp cận tín dụng thúc đẩy việc áp dụng các công nghệ có tính rủi ro thông qua việc xoá bỏ rào cản thanh khoản cũng như tăng khả năng chịu rủi ro của hộ gia đình (Simtowe và Zeller, 2006). Lý do chủ yếu là nếu đi vay, hộ gia đình có thể giảm thiểu rủi ro nhưng chiến lược đa dạng hoá thu nhập trở nên không hiệu quả và tập trung nhiều vào các khoản đầu tư rủi ro nhưng hiệu quả (Simtowe và Zeller, 2006). Do đó, các nhà hoạch định chính sách cần phải cải tiến hệ thống tín dụng nhỏ hiện tại để đảm bảo rằng các hộ nông dân vừa và nhỏ có thể tiếp cận nguồn tín dụng, đặc biệt các hộ gia đình có lao động chủ lực là nữ giới (Simtowe và Zeller, 2006). Trong một số trường hợp, cần phải thiết kế các gói tín dụng đáp ứng nhu cầu các nhóm cụ thể (Muzari và cộng sự, 2013). Vì dụ tại Kenya, Chính phủđã bắt đầu một chương trình cung cấp các khoản vay không lãi suất cho thanh niên và phụ nữa. Điều này giúp nâng cao vị thế của phụ nữ và giúp họ áp dụng công nghệ nông nghiệp để tăng năng suất góp phần tăng trưởng kinh tế.
Yếu tố con người
Vốn con người được cho là có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định của nông dân về việc áp dụng các công nghệ mới. Hầu hết các nghiên cứu về việc áp dụng công nghệ đã cố đo lường vốn con người qua trình độ học vấn, độ tuổi, giới tính và quy mô hộ gia đình (Fernandez-Cornejo và cộng sự, 2007; Mignouna và cộng sự, 2011; Keelan và cộng sự, 2014).
Trình độ học vấn được cho là có ảnh hưởng tích cực đến quyết định của nông
dân trong việc áp dụng công nghệ mới. Trình độ học vấn tăng khả năng nhận biết, xử lý và sử đụng thông tin liên quan đến việc áp dụng công nghệ mới (Mignouna và cộng sự, 2011; Lavison, 2013; Namara và cộng sự, 2013). Đó là do giáo dục đại học có ảnh hưởng đến nhận thức và suy nghĩ của con người, làm họ cởi mở, đón nhận cái mới và có thể phân tích các lợi ích của công nghệ mới (Waller và cộng sự, 1998). Điều này làm cho việc giới thiệu công nghệ mới trở nên dễ dàng hơn và từ đó có ảnh hưởng nhất định đến quá trình áp dụng công nghệ (Adebiyi và Okunlola, 2010).
Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2015 lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong khu vực nông thôn chiếm 68.8%. Tỉ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo đạt 13.9%. Trình độ thấp kém của người lao động đã ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp cận với khoa học và công nghệ hiện đại. Trong khi đó, việc đào tạo đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta còn nhiều bất cập, chưa bám sát yêu cầu thực tiễn.
- Độ tuổi
Độ tuổi cũng được giả định là một yếu tố quyết định việc áp dụng công nghệ mới. Người nông dân lớn tuổi hơn thường tích luỹ kiến thức và kinh nghiệm lâu năm, có khả năng đánh giá thông tin về công nghệ tốt hơn những người nông dân trẻ tuổi (Mignouna và cộng sự, 2011; Kariyasa và Dewi, 2011). Ngược lại, có một vài nhà khoa học cho thấy độ tuổi và việc áp dụng công nghệ có mối quan hệ trái chiều. Theo Mauceri và cộng sự (2005), khi người nông dân lớn tuổi hơn, sự lo sợ rủi ro tăng lên và họ giảm sự thích thú với những khoản đầu tư dài hạn cho nông nghiệp. Mặt khác, những người nông dân trẻ tuổi thường không né tránh rủi ro và sẵn sàng thử các công nghệ mới hơn.
- Giới tính
Các vấn đề về giới tính trong việc áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp đã được điều tra trong một thời gian dài và hầu hết các nghiên cứu đều đưa ra những bằng chứng khác nhau về vai trò của nam giới và nữ giới trong việc áp dụng công nghệ (Bonabana-Wabbi, 2002). Trong phân tích tác động của giới tính vào việc áp dụng công nghệ, Morris và Doss (1999) đã không tìm thấy mối liên hệ đáng kể nào giữa giới tính và xác suất để sử dụng giống ngô mới ở Ghana. Họ kết luận rằng các quyết định về việc áp dụng công nghệ mới chủ yếu phụ thuộc vào việc tiếp cận các nguồn tài nguyên, chứ không phải về giới tính. Mặt khác, giới tính có thể có ảnh hưởng đáng kể đối với một số công nghệ. Giới tính ảnh hưởng đến việc áp dụng công nghệ khi người đứng đầu gia đình quyết định chính là nam giới, họ có quyền tiếp cận và kiểm soát nguồn lực sản xuất hơn nữ giới (Mignouna và cộng sự, 2011). Hơn nữa, theo Raghav và Sen (2014), nam giới thường có nhiều thông tin về công nghệ hơn nữa giới do hầu hết phụ nữ không có điều kiện tiếp cận với sự thay đổi công nghệ, hay thăm các hội chợ nông nghiệp do họ quá bận rộn với công việc gia đình nội trợ và chăm sóc con cái.
- Quy mô hộ gia đình
Quy mô hộ gia đình chỉ đơn giản được sử dụng như một thước đo về sự sẵn có của lao động. Nó quyết định quá trình áp dụng công nghệ khi một hộ gia đình lớn có
khả năng giảm bớt các ràng buộc về lao động trong quá trình áp dụng công nghệ mới (Mignouna và cộng sự, 2011).
- Mức độ ngại rủi ro và tổn thất
Theo Ward và Singh (2014), yếu tố tiên quyết ảnh hưởng đến quyết định áp dụng công nghệ cao là nhận thức về rủi ro của người nông dân về công nghệ mới và khả năng sẵn sàng chấp nhận rủi ro liên quan đến quyết định áp dụng công nghệ này. Theo kết quả nghiên cứu, nữ giới thường có xu hướng tránh rủi ro và mất mát nhiều hơn nam giới. Hơn nữa, những người có xu thế tránh rủi ro và mất mát ban đầu thường sẵn sàng chuyển đổi sang áp dụng các công nghệ mới khi giống mới tốt hơn. Kết quả này cho thấy mức độ nhạy cảm của nhóm người này với sự suy giảm sản lượng.
- Kết luận và định hướng nghiên cứu
Bài tham luận này đã xem xét các nghiên cứu trước đây về các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Nhận thức của người nông dân đối với công nghệ mới là một điều kiện tiên quyết cho việc áp dụng nó. Các yếu tố khác đã được chỉ ra để xác định việc áp dụng công nghệ trong nông nghiệp bao gồm các yếu tố con người, yếu tố kinh tế, yếu tố công nghệ và thể chế.
Dựa trên các nghiên cứu đã phân tích, tác giả đã có thể xây dựng một số đề xuất liên quan đến các yếu tố quyết định việc người nông dân áp dụng các công nghệ mới trong nông nghiệp hay không, đây có thể là con đường để phát triển những nghiên cứu trong tương lai. Các giả định như sau:
- ! Nông dân có trang trại lớn hơn thường có xu hướng áp dụng công nghệ cao, vì việc áp dụng công nghệ cao có thể tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô (economies of scale).
- ! Nông dân có trình độ học vấn cao hơn thường sẽ áp dụng công nghệ cao, vì họ có nhiều kiến thức hơn về thực tiễn sản xuất tốt nhất.
- ! Độ tuổi của nông dân có thể là một yếu tố hạn chế trong việc áp dụng công nghệ cao: khi những người nông dân lớn tuổi họ sẽ cân nhắc kĩ hơn, ngại việc áp dụng công nghệ mới (risk - aversion).
- ! Những người nông dân có các nguồn thu nhập phi nông nghiệp có nhiều khả năng áp dụng công nghệ cao, vì rủi ro của việc thất bại trong việc áp dụng công nghệ cao có ít tác động đến thu nhập của họ hơn so với những người mà nguồn thu chủ yếu vào nông nghiệp.
- ! Nông dân có cơ hội tiếp cận nhiều nguồn tài chính để tài trợ cho sản xuất và tài trợ máy móc có nhiều khả năng áp dụng công nghệ cao do việc tiếp cận các nguồn này có thể khuyến khích mua máy móc thiết bị mới và các nguyên liệu đầu vào hiện đại.
- ! Những người nông dân tham gia vào các hiệp hội hay hợp tác xã có nhiều trải nghiệm về công nghệ mới và sự thay đổi trong phương pháp canh tác và nó sẽ ảnh hưởng đến khả năng họ áp dụng công nghệ cao vào việc trồng trọt, chăn nuôi.
- ! Nông dân có thể tiếp cận với nhiều nguồn thông tin về công nghệ cao hơn thì sẽ có nhiều khả năng áp dụng các công nghệ đó vì họ nhận thức được tác động của việc sử dụng công nghệ cao trong hoạt động kinh doanh trang trại của mình.
- ! Nông dân có kinh nghiệm quản lý tốt hơn trong lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp có khả năng cao sẽ áp dụng công nghệ mới do họ có tầm nhìn xác định được các cơ hội đầu tư vào công nghệ cao và tầm ảnh hưởng của nó tới lợi nhuận trong thời gian dài hạn.
- ! Cơ hội thử nghiệm công nghệ trên quy mô nhỏ hơn trước khi áp dụng cho toànbộ khu vực sẽ tạo cơ hội lớn hơn cho việc áp dụng công nghệ cao, bởi vì các nhà sản xuất có thể đánh giá kết quả và tác động của việc áp dụng công nghệ mới này trong doanh nghiệp của họ trước khi nhân rộng ra toàn khu vực.
- ! Loại công nghệ được áp dụng cũng ảnh hưởng đến việc áp dụng công nghệ mới. Công nghệ canh tác chính xác được coi là đơn giản hơn và dễ được ứng dụng hơn các công nghệ phức tạp khác
Từ các đánh giá, yếu tố quyết định việc áp dụng công nghệ trong nông nghiệp không phải lúc nào cũng có tác động giống nhau với tất cả các công nghệ mà ảnh hưởng của nó còn phụ thuộc vào loại công nghệ nào được giới thiệu. Ví dụ, mối quan hệ giữa quy mô trang trại và việc áp dụng công nghệ trong nông nghiệp cho kết quả không đồng nhất. Quy mô trang trại lớn có thể có tác động tích cực đến việc áp dụng một công nghệ nhất định và nó cũng có thể dẫn đến tác động tiêu cực. Hiểu được các yếu tổ ảnh hưởng và gây cản trở cho việc áp dụng công nghệ trong nông nghiệp là vô cùng cần thiết trong việc lập kế hoạch và thực hiện các chương trình liên quan đến công nghệ để đáp ứng những thách thức mới của việc sản xuất lương thực tại các nước đang phát triển. Vì vậy, để nâng cao việc áp dụng công nghệ của người nông dân, điều quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách và phát triển công nghệ mới là hiểu nhu cầu của nông dân cũng như khả năng áp dụng công nghệ của họ để có được công nghệ phù hợp với họ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bùi Thị Minh Nguyệt, Trần Văn Hùng (2016), “Phát triển nông nghiệp Việt nam trong bối cảnh hội nhập”, Kinh tế và Chính sách, 4, pp. 142–151.
- Phạm Văn Hiển (2014), “Phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam: Kết quả ban đầu và những khó khăn cần tháo gỡ”, Nghiên cứu Đông Nam Á, 12, pp. 64–70.
- Tổng Cục Thống kê (không năm xuất bản), Thông tin về Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Ngư nghiệp, truy cập lần cuối ngày 29 tháng 06 năm 2017, từ
<http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=717>.
- Abate, G.T. et al. (2016), "Rural Finance and Agricultural Technology Adoption in Ethiopia: Does the Institutional Design of Lending Organizations Matter?", World Development, 84(March), pp. 235–253.
- Akudugu, M., Guo, E., Dadzie, S. (2012), "Adoption of Modern Agricultural Production Technologies by Farm Households in Ghana: What Factors Influence their Decisions?", Journal of Biology, Agriculture and Healthcare.
- Antolini, L. et al. (2011), "Adoption of precision agriculture technologies by farmers: A systematic literature review and proposition of an integrated conceptual framework".
- Asfaw, S. et al. (2011), "Agricultural technology adoption, seed access constraints and commercialization in Ethiopia.", Journal of Development and Agricultural Economics, 3(9), pp. 436–447.
- Bandiera, O., and Rasul, I. (2002). "Social Networks and Technology Adoption in Northern Mozambique", Discussion Paper Series. London, UK, Centre for Economic Policy Research CEPR. April 2002.
- Banerjee, B., Martin, S., Roberts, R., Larkin, S., Larson, J., Paxton, K., English, B., Marra, M., and Reeves, J. (2008), "A Binary logit estimation of factors affecting adoption of GPS guidance systems by cotton producers", Journal of agricultural and applied economics. pp. 345-355.
- Bonabana-Wabbi J. (2002), "Assessing Factors Affecting Adoption of Agricultural Technologies: The Case of Integrated Pest Management (IPM) in Kumi District," Msc. Thesis. Eastern UgandaChalla.
- Boston Consulting Group (2015) ‘Crop Farming 2030’, retrieved on June 29th, 2017, from <https://www.bcgperspectives.com/content/articles/process- industries-innovation-crop-farming-2030-reinvention-sector/>.
- Challa, Merga (2013). "Determining Factors and Impacts of Modern Agricultural Technology Adoption in West Wollega", retrieved on June 29th 2017, from <http://www.grin.com/en/e-book/280336/determining- factors-and- impacts-of-modern-agricultural-technology-adoption>.