PGS. TS. Nguyễn Bạch Nguyệt
TS. Hoàng Thị Thu Hà
Đại học Kinh tế Quốc dân
Thực tế trong những năm qua cho thấy, hoạt động đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta bên cạnh những đạt được, vẫn còn bộc lộ những khó khăn, hạn chế ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư và hiệu quả đầu tư. Bởi vậy, để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi các nhà quản lý cần am hiểu các đặc trưng của sản xuất nông nghiệp công nghệ cao và các yêu cầu đặt ra khi thực hiện đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Để từ đó, có thể đưa ra được các giải pháp phù hợp. Đó cũng chính những nội dung sẽ được trình bày cụ thể trong bài viết này.
1. Bản chất nông nghiệp công nghệ cao
Nông nghiệp công nghệ cao có thể được hiểu một cách khái quát, đó là nền nông nghiệp ứng dụng các công nghệ hiện đại vào toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, đảm bảo phát triển nông nghiệp bền vững.
Theo vụ Khoa học công nghệ - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, nông nghiệp công nghệ cao : “ Là nền nông nghiệp được ứng dụng công nghệ mới vào trong sản xuất, bao gồm: công nghiệp hoá nông nghiệp (cơ giới hoá các khâu của quá trình sản xuất), tự động hoá, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học và các giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất và chất lượng cao, đạt hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện tích và phát triển bền vững trên cơ sở canh tác hữư cơ”.
Từ đó cho thấy, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao là hệ thống sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung theo chuỗi giá trị sản phẩm. Tất cả các giai đoạn sản xuất theo chuỗi đều đạt trình độ công nghệ sản xuất tiên tiến (công nghệ sinh học, tin học, công nghệ vật liệu mới, cơ giới hoá, tự động hoá …) nhằm tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp hàng hóa với năng suất, chất lượng, hiệu quả đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời nâng cao mức sống cho người lao động.
2. Đặc trưng của sản xuất nông nghiệp công nghệ cao
Xuất phát từ bản chất nêu trên, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao có những đặc trưng chủ yếu sau:
- Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trước hết phải là một hệ thống sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn, gắn liền với các cơ sở chế biến và thị trường tiêu thụ. Sản xuất tập trung quy mô lớn phải hình thành các vùng, các tiểu vùng sản xuất chuyên môn hóa, các cánh đồng chuyên canh có quy mô đủ lớn phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ở từng vùng, từng địa phương và cả nước. Với quy mô như vậy thì sản xuất nông nghiệp mới có khả năng ứng dụng công nghệ cao để sản xuất ra nhiều hàng hóa nông sản có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Mặt khác, do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp diễn ra trên địa bàn rộng lớn phức tạp mang yếu tố vùng và khu vực rất cao, chính đặc điểm đó không thể cho phép sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển trên tất cả các vùng, các khu vực, các loại vật nuôi, cây trồng khác nhau trong cả nước. Do đó, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi phải khảo sát, nghiên cứu kỹ các điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội ở từng vùng, từng địa phương và cả nước. Với quy mô như vậy thì sản xuất nông nghiệp mới có khả năng ứng dụng công nghệ cao để sản xuất ra các nông sản hàng hóa có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Thứ hai, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao được tiến hành theo chuỗi giá trị sản phẩm từ lúc bắt đầu cung cấp các yếu tố đầu vào đến hoạt động sản xuất nông nghiệp rồi thu gom bảo quản chế biến sản phẩm và bán sản phẩm ra thị trường. Sản xuất nông nghiệp theo chuỗi sẽ đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững, thực hiện công bằng lợi ích phân chia lợi nhuận giữa các tác nhân tham gia chuỗi giá trị. Sản xuất nông nghiệp theo chuỗi còn làm tăng nhanh năng suất lao động, năng suất sản phẩm, cải thiện và nâng cao kiến thức, kỹ năng kinh doanh của các tác nhân tham gia chuỗi, đồng thời dễ kiểm soát vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm ảnh hưởng đến sức khỏe con người và ô nhiễm môi trường sinh thái. Sản xuất nông nghiệp theo chuỗi sẽ giúp cho việc tìm ra hướng đầu tư hợp lý giữa các công đoạn trong chuỗi giá trị sản phẩm.
- Thứ ba là trình độ công nghệ sản xuất nông nghiệp trong tất cả các khâu của chuỗi giá trị đều thực hiện phát triển đồng bộ và đạt trình độ tiên tiến hay cao. Một yêu cầu quan trọng của việc ứng dụng công nghệ nói chung hay công nghệ cao nói riêng vào sản xuất nông nghiệp chỉ phát huy tác dụng và đạt hiệu quả cao nhất khi thực hiện đồng bộ các yếu tố công nghệ. Vì các yếu tố công nghệ bao giờ cũng phát huy tác dụng một cách đồng bộ, ngược lại chúng sẽ kìm hãm và cản trở lẫn nhau. Việc thực hiện đồng bộ các yếu tố công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp như: Thủy lợi hóa nông nghiệp, cơ điện khí hóa nông nghiệp, hóa học hóa, sinh học hóa, công nghệ thông tin, quy trình kỹ thuật, kinh nghiệm và bí quyết sản xuất tiên tiến trong đó.
Thủy lợi hóa nông nghiệp trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, đảm bảo không chỉ chủ động tưới tiêu nước cho mọi cây trồng, vật nuôi. Đồng thời thủy lợi phải tiến tới tưới tiêu khoa học theo yêu cầu sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi bằng các phương pháp tưới phù hợp như tưới phun mưa, tưới nhỏ giọt cho các cây trồng ở các vùng sản xuất tập trung, chuyên môn hóa sản xuất hàng hóa. Mặt khác, thủy lợi hóa còn phải thực hiện vai trò bảo vệ nguồn nước tưới, làm nguồn nước tưới không bị cạn kiệt, thiếu nước và không làm ô nhiễm nguồn nước tưới. Như vậy, sẽ đảm bảo cho nông nghiệp công nghệ cao phát triển bền vững và phát huy tốt tác dụng của các yếu tố công nghệ khác.
Cơ điện khí hóa trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Do sản xuất được tiến hành tập trung quy mô lớn nên rất thuận tiện cho máy móc cơ giới hóa hoạt động trong sản xuất, vận chuyển, thu gom và chế biến sản phẩm. Trình độ sản xuất càng phát triển thì mức độ cơ giới hóa và tự động hóa ngày càng cao, đó là xu thế tất yếu, là phương tiện mạnh nhất để tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, thực hiện đúng và kịp thời các yêu cầu kỹ thuật của sản xuất. Trong quá trình phát triển cơ giới hóa nông nghiệp cần thực hiện phát triển cơ giới hóa giao thông trước để mở đường cho cơ giới hóa phát triển và thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển nhanh hơn. Trong nông nghiệp công nghệ cao việc ứng dụng điện khí hóa vào sản xuất rất rộng rãi và phổ biến để phục vụ trực tiếp cho thủy lợi hóa và cơ giới hóa, đáp ứng yêu cầu sản xuất nói chung. Điện khí hóa trong nông nghiệp có rất nhiều ưu điểm. Ngoài việc phục vụ trực tiếp cho thủy lợi hóa và cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, điện còn dùng để bảo quản, sấy khô sản phẩm, chiếu sáng phục vụ sản xuất, sưởi ấm cho cây trồng, vật nuôi, .. và không gây ô nhiễm môi trường.
Hóa học hóa trong phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao yêu cầu việc sản xuất và ứng dụng các sản phẩm hóa chất không ảnh hưởng đến sức khỏe con người, thân thiện với môi trường và phát triển nông nghiệp bền vững. Sản xuất và sử dụng các loại phân bón tổng hợp có hàm lượng dinh dưỡng NPK dễ sử dụng. Sản xuất và ứng dụng nhiều các loại vitamin, muối vi lượng và các chất dinh dưỡng khác để trồng rau, hoa quả theo phương pháp thủy canh đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất hàng hóa. Xóa bỏ và giảm thiểu tối đa các sản phẩm hóa chất độc hại không thân thiện với môi trường, còn làm hạn chế sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa nông nghiệp như thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ dại, thuốc kích thích tăng trưởng,… Ngoài các sản phẩm hóa chất có nhiều ưu điểm để phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao cần sản xuất và sử dụng phổ biến và ngày càng nhiều các chế phẩm vi sinh, hóa sinh như thuốc thảo dược để bảo vệ cây trồng, vật nuôi hay phương pháp vật lý chiếu xạ để bảo quản sản phẩm, nhất là sản phẩm xuất khẩu.
Sinh học hóa trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao có xu hướng rất phát triển nhất là việc ứng dụng các thành tựu sinh học. Công nghệ sinh học trong nông nghiệp là nội dung cốt lõi của sinh học hóa nông nghiệp. Công nghệ sinh học hiện nay được sử dụng trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực như: quốc phòng, y tế, bảo vệ môi trường tự nhiên, …. trong sản xuất nông nghiệp nhất là nông nghiệp công nghệ cao. Công nghệ sinh học hiện tại và tương lai có rất nhiều tiềm năng cho phát triển nông nghiệp. Công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp tăng trưởng nhanh và bền vững. Công nghệ sinh học ứng dụng trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao sẽ tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, vừa đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm vừa bảo vệ được môi trường. Điều đó nhờ sự phát triển và gắn kết giữa công nghệ gen, công nghệ tế bào và công vi sinh. Công nghệ sinh học phát triển trước hết được ưu tiên thực hiện ở những vùng sản xuất hàng hóa tập trung công nghệ cao. Để ứng dụng nhanh công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp cần phải xây dựng hệ thống giống theo phương pháp công nghiệp từ việc nuôi cấy mô, nuôi cấy bao phấn, thực hiện vi ghép, sản xuất trong nhà lưới, …đến sản xuất ra các giống mới tương đương và đạt tiêu chuẩn các nước phát triển trong khu vực và thế giới.
Công nghệ thông tin: Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, thì công nghệ thông tin được coi là nét đặc trưng nổi bật là hạt nhân của việc phát triển và ứng dụng các yếu tố công nghệ cao vào sản xuất. Công nghệ thông tin sẽ kết nối sản xuất nông nghiệp với thị trường trong nước và thế giới, kết nối giữa các yếu tố công nghệ với nhau. Thông qua công nghệ thông tin, người chủ sản xuất hay người lao động sẽ biết được các công việc của mình đang được thực hiện trên đồng ruộng hay cơ sở nhà nuôi và chế biến sản phẩm để có các giải pháp kịp thời và phù hợp. Vì vậy, công nghệ thông tin ngày càng được coi trọng để phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Công nghệ thông tin sẽ thúc đẩy việc tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nhanh và hợp lý, công nghệ thông tin còn là phương tiện chủ lực để nông nghiệp có thể “đi tắt đón đầu” rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước.
Quy trình kỹ thuật tiên tiến: Đi liền với các yếu tố công nghệ nêu trên, nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi phải ứng dụng các quy trình kỹ thuật tiên tiến phù hợp với từng loại cây trồng, vật nuôi, thực hiện đúng và nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh. Sử dụng và phát huy những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, những bí quyết và tay nghề riêng của người lao động tham gia trong chuỗi sản xuất hàng hóa nông sản. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao là tất yếu của tiến trình phát triển, là cơ sở quan trọng để phát triển nền nông nghiệp hàng hóa lớn bền vững.
3. Những vấn đề đặt ra trong đầu tư phát triển nông nghiệp CNC ở nước ta
Từ những đặc trưng cơ bản trên cho thấy, để thực hiện đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao đạt được hiệu quả mong muốn, cần phải chú ý đến những vấn đề cơ bản sau:
- Đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao thường đòi hỏi quy mô vốn đầu tư lớn: khác với đầu tư phát triển nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao được tiến hành trên quy mô lớn, sử dụng công nghệ hiện đại nên chi phí đầu tư lớn không chỉ cho máy móc thiết bị; cho giống cây trồng, vật nuôi, đầu tư cho chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp mà còn chi phí đầu tư vào xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông thôn. Đặc biệt ở những vùng có kết cấu hạ tầng kém phát triển, chi phí đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn không phải là nhỏ. Kinh nghiệm thực tế cho thấy để đầu tư cho 1ha nhà kính hoàn chỉnh với hệ thống tưới nước, bón phân có kiểm soát tự động theo công nghệ của Israel cần ít nhất từ 10 tỷ đồng đến 15 tỷ đồng; trung bình đầu tư cho 1m2 nhà lưới cũng cần đến 10 triệu đồng…Về kết cấu hạ tầng nông thôn, trong những năm qua, mặc dù nhà nước đã triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, kết cấu hạ tầng nông thôn đã có sự cải thiện đáng kể. Song nếu so với yêu cầu của phát triển nông nghiệp công nghệ cao thì vẫn chưa thể đáp ứng được. Vốn lớn cần cho đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao đã và đang là trở ngại lớn trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta. Điều này, do nước ta xuất phát từ nền nông nghiệp nhỏ lẻ, mang nặng tính tiểu nông, manh mũn. Theo thống kê của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hiện có tới 90% doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp có vốn chỉ dưới 10 tỷ đồng. Mặt khác khả năng huy động vốn bên trong doanh nghiệp cho đầu tư phát triển nông nghiệp rất thấp. Vốn đầu tư chủ yếu phải huy động từ bên ngoài doanh nghiệp. Vốn đầu tư chỉ đáp ứng được khoảng 55- 60% nhu cầu. Đây cũng được xem là rào cản lớn cho đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta hiện nay.
- Địa điểm để thực hiện đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi diện tích có quy mô lớn mới có khả năng ứng dụng công nghệ cao. Thực tiễn cho thấy để đầu tư phát triển khu nông nghiệp công nghệ cao thấp nhất cũng cần tới 100 ha, đối với các điểm ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao thấp nhất cũng cần 10 ha. Mặt khác, không chỉ đòi hỏi mặt bằng diện tích lớn, đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao còn đòi hỏi việc lựa chọn các địa điểm phải khai thác được các lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương trong sản xuất ra các sản phẩm nông sản để nâng cao được năng lực cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, thực tế triển khai thực hiện đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao nước ta cũng gặp những khó khăn khi lựa chọn địa điểm để đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Đó là vấn đề tích tụ đất đai trong nông nghiệp. Do đất đai trong nông nghiệp nước ta còn manh mún, diện tích đất nhỏ lẻ. Hiện nay với khoảng 70 triệu thửa đất nông nghiệp thì có tới 70% chủ thể đất đai là những hộ nông dân. Tại hội thảo về giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng nông nghiệp công nghệ cao do ngân hàng nhà nước tổ chức tại Hà Nội sáng 4/7/2017. TS Nguyễn Đức Kiên, phó chủ nhiệm uỷ ban Kinh tế quốc hội cho rằng nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay về cơ bản là nền nông nghiệp thực hiện kinh tế hộ là chủ yếu: “Với 40 triệu người làm việc trong nông nghiệp với 3,8 triệu ha trồng lúa được chia thành hơn 8 triệu thửa ruộng, tự cung tự cấp. Việc sản xuất quy mô trang trại, sản xuất hàng hoá lớn là rất ít”. Mặt khác, còn phải kể đến đầu tư không theo quy hoạch hoặc chất lượng các quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp tại các địa phương chưa tốt đã gây ảnh hưởng đến việc lựa chọn các địa điểm cho việc triển khai thực hiện đầu tư nông nghiệp công nghệ cao.
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao: do xuất phát từ nền nông nghiệp lạc hậu nên nguồn nhân lực sản xuất nông nghiệp ở nước ta có chất lượng thấp, sản xuất theo canh tác truyền thống. Do đó khi chuyển sang ứng dụng các công nghệ hiện đại thì nguồn nhân lực đó không thể đáp ứng được. Vì vậy cần phải chú trọng đến đầu tư đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp công nghệ cao để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu phát triển công nghệ, sản xuất và quản lý quá trình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Một trong những nội dung quan trọng trong đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là cần tập trung đầu tư xây dựng chương trình đào tạo gắn trực tiếp với việc sử dụng công nghệ cao trong nông nghiệp ở các bậc chính quy và sau đại học. Kết hợp đầu tư theo các hình thức đào tạo dài hạn, ngắn hạn cho người lao động trực tiếp tham gia vào sản xuất và quản lý quá trình sản xuất nông nghiêp ứng dụng công nghệ cao. Thực tế trong những năm qua triển khai thực hiện “ Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020”, cho thấy hiệu quả đầu tư cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao không chỉ phụ thuộc vào vốn, đất đai mà yếu tố không kém quan trọng lại là chất lượng nguồn nhân lực. Nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao đã gặp phải khó khăn khi tìm nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn phù hợp. Ví dụ như công ty cổ phần Ecofarm. Đây là doanh nghiệp trồng rau quả theo công nghệ nhà lưới lớn nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Công ty đã phải đưa gần 100 cán bộ đi học kinh nghiệm ở nước ngoài, do khó khăn trong việc tuyển dụng lao động trong nước đáp ứng yêu cầu của công việc…
- Phải chú trọng đầu tư công nghệ cao đồng bộ trong suốt chuỗi cung ứng. Xuất phát từ đặc trưng cơ bản của sản xuất nông nghiệp công nghệ cao phải được tiến hành theo chuỗi giá trị sản phẩm, do đó hoạt động đầu tư chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi chú trọng đầu tư hợp lý và đồng bộ trong các khâu của chuỗi giá trị sản phẩm. Chỉ một khâu trong chuỗi giá trị sản phẩm không đảm bảo thì ảnh hưởng đến khâu tiếp theo và từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Ở Việt Nam, thực tế chưa vẫn thực sự chú trọng đến nội dung này. Điều này đã làm giảm giảm giá trị gia tăng của sản phẩm nông sản. Mặc dù hiện nay, nông nghiệp Việt Nam đã tham gia vào chuỗi toàn cầu, song mới chỉ ở các khâu có giá trị gia tăng thấp.
- Đầu tư trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao phải đảm bảo đầu tư đồng bộ các yếu tố công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp như đầu tư cho thuỷ lợi hoá nông nghiệp, cho cơ điện khí hoá nông nghiệp, hoá học hoá, sinh học hoá, công nghệ thông tin, quy trình kỹ thuật, kinh nghiệm và bí quyết sản xuất tiên tiến trong đó. Đầu tư đồng bộ các yếu tố công nghệ mới phát huy được tác dụng của chúng. Ngược lại, nếu đầu tư không đồng bộ các yếu tố công nghệ, chúng sẽ kìm hãm và cản trở lẫn nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả đầu tư phát triển. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta chủ yếu mới chỉ tập trung đầu tư ứng dụng công nghệ sinh học mà chưa chú trọng đến ứng dụng đồng bộ các yếu tố công nghệ trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Mặt khác công nghệ cao ứng dụng cũng chỉ tập trung vào một số khâu của quá trình sản xuất. Do đó dẫn đến năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm nông sản chưa cao và hiệu quả đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao thấp.
- Đầu tư công nghệ cao cho khâu bảo quản và chế biến sản phẩm nông sản: Khác với sản phẩm công nghiệp, sản phẩm nông nghiệp có đặc điểm tươi, sống, có tính thời vụ. Do đó đầu tư công nghệ cao cho khâu bảo quản sản phẩm nông nghiệp để đảm bảo chất lượng sản phẩm cũng cần phải chú trọng. Mặt khác, để nâng cao giá trị gia tăng cao cho sản phẩm nông sản, cần đẩy mạnh đầu tư công nghệ cao cho công nghiệp chế biến nông sản. Theo các chuyên gia kinh tế, mỗi loại nông sản hàng hoá nông sản nếu được chế biến có thể nâng cao lãi suất lên đến 300% so với việc bán sản phẩm thô. Tại nước ta, các hàng hoá nông sản xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô, sơ chế. Do đó giá giá trị gia tăng sản phẩm hàng hoá nông sản rất thấp, dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp.
- Đầu tư cho khâu nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản: Do thực hiện đầu tư ứng dụng các công nghệ hiện đại đã tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá nông sản lớn. Mặt khác, đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp là tươi sống và mang tính thời vụ. Do đó việc nghiên cứu dự báo thị trường, lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cần được chú trọng. Nếu việc nghiên cứu dự báo thị trường không kỹ càng, sản phẩm nông sản không tiêu thụ được hoặc bán với giá rất thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Do đó việc nghiên cứu thị trường, lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cần được chú trọng. Trong nghiên cứu thị trường, cần đánh giá chính xác những lợi thế so sánh của hàng hoá nông sản ở Việt Nam từ đó tập trung nghiên cứu tìm kiếm thị trường và làm chủ thị trường đặc biệt với thị trường xuất khẩu. Đầu tư cho nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm có thể thực hiện đồng bộ nhiều nội dung, trong đó cần chú trọng đầu tư phát triển thương hiệu cho hàng hoá nông sản của Việt Nam (đầu tư xây dựng thương hiệu, đầu tư đăng ký bảo hộ thương hiệu trong và ngoài nước…), đầu tư xúc tiến thương mại cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài để thúc đẩy việc tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá nông sản. Mặc dù là một nước xuất khẩu hàng hoá nông sản lớn, song nhiều loại nông, lâm thuỷ sản chưa có thương hiệu trên thị trường quốc tế. Việc tiêu thụ các hàng hoá nông sản của các doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn và chịu nhiều rủi ro về giá cả. Theo bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện các doanh nghiệp bao tiêu thụ khoảng 55% khối lượng nông sản làm ra trong hợp đồng liên kết, còn lại khoản 45% khối lượng nông sản phải bán thị trường tự do.
Như vậy: Thực tế trong những năm qua cho thấy, đầu tư phát triển công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta bước đầu đã đem lại kết quả nhất định. Hiệu quả đầu tư tại các khu nông nghiệp công nghệ cao, các điểm sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, các vùng sản xuất chuyên canh ứng dụng công nghệ cao đã vượt trội so với lối canh tác truyền thống trong sản xuất nông nghiệp. Nó đã thể hiện sự ưu việt trong đầu tư ứng dụng công nghệ cao trong đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp ở nước ta. Tuy nhiên, hiệu quả đạt được trong đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao vẫn còn quá khiêm tốn, quá trình thực hiện đầu tư còn nhiều khó khăn và còn bộc lộ nhiều hạn chế trong đầu tư cần khắc phục từ việc xây dựng định hướng đầu tư, huy động các nguồn lực đầu tư cho đến việc phân bổ và quản lý quá trình đầu tư trong suốt chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp.
Để thực hiện mục tiêu đã đề ra trong đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020 của Thủ tướng chính phủ: “ Góp phần xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, đạt mức tăng trưởng trên 3,5% năm; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia cả trước mắt và lâu dài”. Một trong các giải pháp hữu hiệu là tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển triển nông nghiệp công nghệ cao. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý ở tầm vĩ mô và vi mô cần nắm bắt được các đặc trưng của sản xuất nông nghiệp công nghệ cao và các vấn đề cần chú trọng khi thực hiện hoạt động đầu tư phát triển NNCNC để có thể đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm thực hiện và thực hiện có hiệu quả hoạt động đầu tư sản xuất NNCNC ở Việt Nam.