PGS.TS. Hoàng Sỹ Động
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bài tham luận “Đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao, khắc phục hạn chế, thách thức và nâng cao sức cạnh tranh, phát triển nông sản bền vững” nhìn từ góc nhìn kinh tế, quản trị vĩ mô để phân tích, đánh giá và đưa ra các giải pháp chủ yếu, khắc phục hạn chế, thách thức hiện nay, phát triển sản xuất, kinh doanh nông sản mang lại hiệu quả đầu tư cao, giá trị gia tăng nông sản chủ lực cao và phát triển bền vững trên cơ sở khai thác, phát huy tiềm năng, lợi thế tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, mạng sản xuất trước các thay đổi trong nước, quốc tế.
1. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ tư (4.0)
Chủ đề Hội thảo trọng tâm vào đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nên tác giả đưa ra nội hàm cuộc cách KH&CN4.0 vì là chìa khóa cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam dựa vào để trở thành nước công nghiệp mới nhanh hơn,nhưng trên bình diện quốc tế còn không ít bàn luận chưa thống nhất, nên hiện nay ở Việt Nam còn chưa rõ nội dung. Dựa trên các công trình “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Định dạng tương lai toàn cầu”, Luoise Chamberlain (2017), “Cách mạng công nghiệp lần thứ 4”, Phạm Ngọc Hải (2017), “Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư”, Klaus Schwab (2016), “Cuộc cách mạng sản xuất tiếp theo - Báo cáo nội bộ Dự án”, OECD (Trung tâm hội nghị Paris), 2016 và “Cuộc cách mạng công nghệ 4.0: Thông tin công nghệ thời gian”, WB, 2017…từ góc nhìn nghiên cứu vĩ mô, tác giả chia sẻ suy nghĩ của mình về nội hàm cuộc cách mạng này dưới đây:
Thứ nhất: Đổi mới nhanh KH&CN dựa trên tri thức, các nhà khoa học sáng tạo ra lý thuyết mới, phương pháp mới và công cụ mới (người máy với tri thức nhân tạo vượt trội, máy in 3 D hay internet…) được tích hợp bằng công nghệ số, tạo bước đột phá nâng cao năng suất tổng hợp, vượt trội trong cạnh tranh kinh tế, xã hội… mà chúng ta chưa từng thấy trong lịch sử phát triển nhân loại.
Thứ hai: Tiến bộ tích hợp công nghệ số giúp rút ngắn khoảng cáchtừ lý thuyết đến thực tiễn giữa các bên, KH&CN tham gia trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh, làm thay đổi nhận thức hàng nghìn đời của nhân loại “Ai chiếm đất đai, hầm mỏ” sẽ thắng, thay bằng ai có trí tuệ hơn người, sáng tạo ra lý thuyết mới, phương pháp và công cụ mới sẽ nắm phần thắng trong tiến trình phát triển.
Thứ ba: Cuộc cách mạng KH&CN lần thứ tư, gắn liền khoa học quản trị tiên tiến, tạo ra đột phá chưa có tiền lệ, chuyển phương thức sản xuất công nghiệp lên tầm cao mới, mà lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tiến bộ vượt bậc, nâng cao mớibằng tích hợp công nghệ số, rút ngắn thời gian, xóa nhòa không gian, giúp con người giảm giờ làm, giảm nặng nhọc, thụ hưởng giá trị tinh thần mới.
Thứ tư: Cách mạng tích hợp công nghệ số giúp con người, doanh nghiệp và nhất là người tài, doanh nghiệp sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, dẫn tới kết quả kiếm tiền, làm giàu và tích lũy của cải vật chất hữu hình, vô hình nhanh hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử phát triển của xã hội loài người bằng cách làm mới sáng tạo, tạo ra sản phẩm mới chưa có tiền lệ cho nhân loại.
Thứ năm: Mặt khác, chính cuộc cách mạng KH&CN 4.0 sẽ giúp các quốc gia, dân tộc và đặc biệt các doanh nghiệp, tổ chức đào tạo và nghiên cứu, từng con người trên hành tinh phải hoàn thiện mình, phát triển xã hội hiện đại, quản trị bằng thể chế văn minh,tiến bộ phù hợp tiến trình lịch sử phát triển xã hội loài người ở tầm cao mới, nếu không muốn bị văng ra bên ngoài sự phát triển.
Do đó diễn giải một cách dân dã tác giả bài tham luận này cho rằng, cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất trên thế giới là cơ khí hóa (máy hơi nước),… thì cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ tư (4.0) là tích hợp công nghệ số trong bối cảnh biến đổi lớn trong nước và quốc tế.
Bảng 1: Minh họa
|
Đối với chế tạo TV
- NB đi theo analog (sai), US đi theo digital (đúng), thấy trước xu thế phát triển.
(Lĩnh vực điện tử)
|
Bản đồ gen người
- Bản đồ gen người digital (pixel), thấy trước xu thế phát triển.
(Lĩnh vực sinh học)
|
Nguyên nhân cuộc cách mạng khoa học và công nghệ 4.0 được đặc biệt chú trọng, nhất là đầu tư phát triển, với các lý do dưới đây:
Một là: Các biến động lớn diễn ra trên thế giới và hội nhập của các quốc gia, trong đó có Việt Nam sâu rộng hơn làm thay đổi nhận thức xã hội, làm bản chất quá trình phát triển sâu sắc hơn, biến hóa hơn so quá khứ.
Hai là: Những thách thức đối với tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội bền vững, đồng thời cũng là cơ hội để loài người vượt qua chính mình, một số quốc gia, dân tộc trở thành nước công nghiệp mới, số khác tụt hậu.
Ba là: Các ngành, lĩnh vực không thể cùng nhau đi theo hàng ngang, mà tiến bộ vượt bậc sẽ ở một số ngành, lĩnh vực khoa học và công nghệ, nhất là toán, điện tử tin học, khoa học trí tuệ, khoa học sinh học,… tạo ra cách mạng mới.
Bốn là: Tiến bộ vượt bậc về xã hội, đặc biệt là quyền con người như quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc của mọi công dân không ngừng tiến bộ, văn minh song chiến tranh, độc tài vẫn cận kề.
2. Tình hình, bối cảnh đầu tư phát triển nông nghiệp Việt Nam
2.1. Hạn chế trong tiếp cận đầu tư phát triển nông nghiệp của Việt Nam
Việt Nam tiếp cận phát triển nông nghiệp nói chung, đầu tư phát triển nông nghiệp nói riêng theo chức năng, nhiệm vụ từng ngành,lĩnh vực mà không phải tiếp cận phương pháp cùng tham gia, xác địnhtrách nhiệm cụ thể. Theo đó, ngành Nông nghiệp đầu tư tập trung chủ yếu vào thượng nguồn, phần nào vào trung nguồn, trong khi ngành Công thương tập trung vào hạ nguồn, một số vào trung nguồn.
Đặc biệt tại Việt Nam lại khó xác định trách nhiệm cụ thể lĩnh vực (Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy sản) và nhất là người chịu trách nhiệm trong đầu tư sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông sản chủ lực quốc gia, chưa thấy đầu tư vào những khâu yếu kém cốt lõi (giống, cơ khí hóa, tiêu chuẩn, thương hiệu,…) khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, mạng sản xuất nông sản trong bối cảnh nhiều thay đổi.
Hiện tại, Việt Nam thành lập nhiều quỹ, trong đó có quỹ hỗ trợ phát triển và ứng dụng KH&CN, nhưng lại có quy mô tài chính nhỏ và đặc biệt là quy chế chưa rõ, thủ tục phức tạp để các doanh nghiệp, nhà khoa học tiếp cận, không thể bỏ qua tham những, nên từ khi thành lập 2 quỹ loại này ở Bộ KH&CN sau vài năm mới đi vào hoạt động và đến nay mới chỉ 2-3 doanh nghiệp nhận được hỗ trợ (N. A. Thư, 2017).
2.2. Hạn chế trong đầu tư phát triển nông nghiệp theo lãnh thổ, phân ngành ở Việt Nam
Theo địa lý kinh tế, cụ thể lý thuyết tổ chức lãnh thổ và lý thuyết cạnh tranh cùng dựa trên tiềm năng, lợi thế cho thấy tổ chức không gian ngành, lĩnh vực, nhất là ngành nông nghiệp và cụ thể đầu tư phát triển không gian nông nghiệp bị chia cắt theo các vùng (6-8 vùng), kiểu 63 tỉnh là 63 đơn vị kinh tế độc lập hay CNN, KNN công nghệ cao, với ranh giới rõ ràng và diện tích hạn hẹp, nằm kề bên vùng quảng canh nông nghiệp lớn, thì chất lượng nông sản thấp là đương nhiên. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này vì thiếu xác định trách nhiệm, vì quyền lợi của ngành, lĩnh vực mình vàthiếu kết nối, hợp tác, không loại trừ cạnh tranh, lại chưa xác định sản phẩm nông sản chủ lực quốc gia, nên chưa phát huy được tiềm năng, lợi thế trong sản xuất, kinh doanh nông sản tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, mạng sản xuất.
Hình 1: Vốn đầu tư phân theo các ngành GĐ 2010-2015
(ĐVT: tỷ đồng)
Từ biểu đồ trên thấy rằng, đầu tư chung cả nước, đầu tư theo ngành, lĩnh vực trong giai đoạn 2010-2015 thì các năm 2011, 2012 giảm xuống nhẹ do khủng hoảng kinh tế mang lại và đầu tư phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp ít thay đổi, trong khi nông nghiệp là lĩnh vực tiềm năng, lợi thế quốc gia.
Đặc biệt chỉ tiêu ICOR luôn ở mức cao, thậm chí có năm vượt 6 - chứng tỏ hiệu quả đầu tư Việt Nam thấp, so sánh với nhiều nước khu vực và phát triển nông nghiệp cũng chưa hiệu quả vì đầu tư nội ngành (nông nghiệp, công nghiệp, thương mại) cho thấy sự tách biệt và đầu tư theo lãnh thổ như mô tả ở phần trên, do các bên tham gia chưa thấy điểm chung nhất là nâng cao năng suất, chất lượng để cạnh tranh, thu giá trị gia tăng và phát triển bền vững để các bên cùng thắng.
Hình 2: So sánh ICOR nền kinh tế, với ICOR ngành NN
2.3. Phân tích, đánh giá sản xuất, kinh doanh nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu, mạng sản xuất
Thời gian qua chúng ta thấy rằng, việc xây dựng mô hình chuỗi giá trị nông sản đã mang lại tăng trưởng khá cao, ngành nông nghiệp đạt được nhiều thành tựu, góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP cả nước, nâng cao kim ngạch xuất khẩu, tuy nhiên hai năm gần đây (2015, 2016) tăng trưởng ngành nông nghiệp suy giảm nghiêm trọng và hàng hóa nông sản gặp nhiều trở ngại trong xuất khẩu (2017).
Bảng 2: Kết quả sản xuất, kinh doanh nông nghiệp (2009-2016)
TT
|
Chỉ tiêu
|
Đơn vị tính
|
Giá trị đạt được
|
1
|
Tăng trưởng nông nghiệp; (riêng 2016)
|
-%/năm
|
3,2;(1,2)
|
2
|
GDP nông nghiệp (năm 2009; 2014; 2016)
|
-Nghìn tỷ
|
394,7; 451,6; 468,1
|
3
|
Tăng trưởng xuất khẩu
|
-%/năm
|
15,0
|
4
|
Giá trị xuất khẩu thu được (năm 2009; 2014; và riêng 2016)
|
-Tỷ USD
|
15,3; 30,8; và32,1
|
Nguồn: Niên giám Tổng cục Thống kê
Theo Bảng 3 cho thấy giá trị thu được tính theo phần trăm phân theo 3 công đoạn của chuỗi giá trị toàn cầu đối với 4 sản phẩm xuất khẩu quốc gia, thì rõ ràng Việt Nam đang gặp nhiều trở ngại trong sản xuất, kinh doanh, nhất là xuất khẩu khi khâu trung gian và khâu buôn bán chiếm tỷ trọng quá lớn, làm người sản xuất thiệt thời, cho thấy Việt Nam chúng ta chưa cùng nhau hợp tác giải quyết.
Bảng 3: Giá trị kinh tế nông sản từng phần trong chuỗi giá trị
Mặt hàng
|
Vùng đại diện
|
ĐV tính
|
Thượng nguồn
|
Trung nguồn
|
Hạ nguồn
|
1/ Lúa gạo
|
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long
|
%
|
25,6
|
44,6
|
29,8
|
2/ Cá tra
|
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long
|
%
|
20,5
|
39,0
|
41,5
|
3/ Cà phê
|
Vùng Tây Nguyên
|
%
|
25,3
|
30,1
|
44,6
|
4/ Ván ép
|
Trung du miền núi phía Bắc
|
%
|
22,5
|
33,5
|
44,0
|
5/ Thịt lợn
|
Đồng bằng sông Hồng
|
%
|
31,9
|
43,3
|
25,8
|
Nguồn: Lúa gạo, cá tra, ĐH Cần Thơ;Cà phê, Dự án 3EM; Ván ép, Đại học Lâm nghiệp; Thịt lợn, Học viện Nông nghiệp
Hơn nữa, theo nghiên cứu của WB, FAO và nhiều học giả trong nước, giá trị gia tăng (VA) nông sản Việt Nam như lúa gạo, cà phê, thịt gia súc, gia cầm và lâm sản đều thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của nước khác. Ví dụ, lúa, gạo Thái Lan giá trị gia tăng cao hơn trên 10%, cà phê Brasin cao hơn 12-15% và ván ép Malaysia cao hơn 13-15% so với sản phẩm này của Việt Nam.Đặc biệt xuất khẩu nông sản Việt Nam phụ thuộc rất lớn (chiếm gần 30% giá trị xuất khẩu nông sản) vào Trung Quốc, gặp trở ngại lớn vì bạn giữ nguyên Mô hình thương mại tiểu ngạch.
Để xem xét nguyên nhân sự khác biệt này, xin phân tích sâu hơn một số hạn chế cụ thể liên quan yếu tố vận hành mô hình chuỗi giá trị nông sản hiện nay từ thượng nguồn, trung nguồn, hạ nguồn và tới tác nhân như sau:
- Chuỗi giá trị:
+Thượng nguồn: Đa số các nước tập trung đầu tư sản xuất nông sản ở trình độ và chất lượng cao,Việt Nam tập trung vào số lượng sản phẩm trung bình, làm giảm bền vững tài nguyên và khâu giống chủ yếu do Công ty làm (trước kia là Viện giống quốc gia), thì nước ngoài Viện giống quốc gia hiện đại, cơ giới hóa nông nghiệp, trình độ lao động thấp dẫn đến năng suất tổng hợp thấp.
+Trung nguồn: Đa số các nước tham gia thu mua, phân loại, chế biến ra nông sản chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, với đầy đủ chứng chỉ (nguồn gốc, sở hữu trí tuệ,…) bằng công nghệ tiên tiến và cung cấp cho thị trường cấp cao, chú trọng xây dựng thương hiệu quốc gia, Việt Nam mới chế biến sản phẩm đạt tiêu chuẩn cho thị trường trung bình thấp, bao bì đóng gói và phân loại sản phẩm chưa đạt chuẩn...
+Hạ nguồn: Đa số các nước làm chuyên nghiệp, rất tốt khâu Marketing, giảm tối đa các chi phí trung gian, xúc tiến mở thị trường xuất khẩu, quảng bá thương hiệu nông sản quốc gia, phát triển hệ thống đại lý, nhất là tại thị trường nước ngoài trọng điểm, làm tốt dịch vụ hậu bán hàng, trong khi Việt Nam thiếu chuyên nghiệp, giá vận chuyển cao nhất Đông Nam Á, chưa xây dựng thương hiệu nông sản chủ lực.
- Các tác nhân: Từ ngày mở cửa, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh thế thị trường nhiều thành phần, các tác nhân tham gia phát triển nông nghiệp Việt Nam từng bước tiếp thu và triển khai sản xuất, kinh doanh nông sản tham gia chuỗi giá trị hiệu quả hơn và cùng được lợi. Tuy nhiên, các thành phần tham gia SX, KD nông sản chủ lực quốc gia còn các hạn chế dưới đây:
+ Chính quyền các cấp, tổ chức quốc tế chưa nhận thức, hiểu rõ về chuỗi giá trị trong điều kiện cụ thể Việt Nam, đưa ra chính sách và điều phối nguồn lực chưa hợp lý, nên phát triển chuỗi nông sản thiếu bền vững, giá trị gia tăng chưa cao.
+Doanh nghiệp, trang trại cũng chưa hiểu rõ vai trò, ý nghĩa của việc tham gia sản xuất, kinh doanh nông sản chủ lực trong chuỗi giá trị, mạng sản xuất nên chưa đưa ra được cách làm hiệu quả, mà đặt cọc vào quan hệ, sân sau quan chức.
+ Các Viện nghiên cứu, trường Đại học và các nhà khoa học nông nghiệp cũng chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò và đặc biệt là quyền lợi của mình nên chưa chủ động, tích cực triển khai R&D và I&D trong sản xuất, kinh doanh nông sản.
+ Các tổ chức HTX, Hiệp hội nông sản chưa được xã hội xác định đúng và chính họ cũng chưa hiểu được vai trò, vị trí của mình nên hoạt động còn hình thức, thiếu hiệu quả, còn ngân hàng, tổ chức tín dụng vì lợi ích nâng lãi suất cao.
- Mối quan hệ trong chuỗi giá trị toàn cầu: Mỗi quan hệ biên chứng giữa các tác nhân, với các hoạt động trong 3 khâu của chuỗi giá trị nông sản từng bước rõ dần trong điều kiện Việt Nam, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập, cần được phân tích, đánh giá thấu đáo hơn nhằm khắc phục trước các biến động lớn trong nước, thế giới.
2.4. Các thách thức trong đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao trước các thay đổi trong nước, quốc tế
- Thách thức trong đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao
* Thách thức từ đầu tư và trình độ KH&CN Việt Nam: Tại Việt Nam, đầu tư cho KH&CN trong thời gian dài không vượt quá 2% của GDP (Nguồn: Tổng cục Thống kê), tuy ít nhưng có năm Bộ này chưa sử dụng hết và đặc biệt hiệu quả đầu tư phát triển KH&CN còn hạn chế. Đầu tư phát triển KH&CN ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng (FAO) lại càng thấp, khoảng 1000 tỷ/năm (Nguồn: Vụ khoa học, công nghệ và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), nên tác động đến nâng cao TFP và chất lượng nông sản thấp. Nghiên cứu trên 30 năm trong ngành sản xuất thấy rằng, rất ít sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam chứa đựng hàm lượng KH&CN cao vì năng suất lao động, năng suất tổng hợp thấp và đặc biệt là sản xuất, kinh doanh nông sản chưa đạt chuẩn mực quốc tế. Điều này dẫn tới sức cạnh tranh, giá trị gia tăng sản phẩm nông sản thấp và phát triển thiếu bền vững nhìn từ các cuộc giải cứu nông sản Việt Nam 15 năm vừa qua khi Trung Quốc duy trì Mô hình thương mại tiểu ngạch, chấp nhận hàng hóa nông sản dưới chuẩn và Việt Nam chưa tiếp cận sản xuất, kinh doanh nông sản trình độ cao.
Điều nhận biết rõ nhất khi nghiên cứu tại Đại học quốc gia Seul, Hàn Quốc (2010) về Hệ thống đổi mới quốc gia về KH&CN, câu hỏi tại sao từ nghiên cứu đến sản xuất ở các nước XHCN Đông Âu, hệ thống các nước XHCN nói chunglâu hơn so với các nước TBCN? Trả lời là các nước TNCN phát triển Hệ thống đổi mới quốc gia về KH&CN, đặc biệt là đầu tư triển khai R&D, I&D, đưa các các phát minh, sáng chế của nhà khoa học đi thẳng vào sản xuất, kinh doanh vì 3 thành phần tham gia, với chức năng, nhiệm vụ và quyền lợi rõ,thì cơ quan nhà nước tạo ra môi trường thể chế tốt, các nhà nghiên cứu có nhiều phát minh sáng chế và doanh nghiệp, yếu tố quyết định đầu tư đưa các phát minh, sáng chế này vào sản xuất, kinh doanh kiếm lời và kết quả 3 bên cùng thắng (nhà nước thu thuế nhiều hơn, người nghiên cứu tăng cao thu nhập vànâng cao trình độ, doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận).
*Thách thức từ Hiệp định thương mại thế hệ mới đối Việt Nam: Tác giả đưa ra 3 đặc điểm đặc trưng (theo quan điểm của mình) về các Hiệp định thương mại thế hệ mới, mà Việt Nam đang và sẽ tham gia từ góc nhìn vĩ mô:
Bảng 4: Các đặc trưng Hiệp định thương mại thế hệ mới
TT
|
Tiêu chí xem xét
|
Đặc điểm đặc trưng
|
1
|
Luật chơi
|
Cam kết theo chuẩn mực quốc tế, ở trình độ cao và độ mở sâu hơn, với tiến trình cụ thể khá hợp lý theo thời gian và đồng thuận.
|
2
|
Áp dụng
|
Thực hiện trên tất cả các mặt đời sống từ kinh tế, xã hội, môi trường, đến quốc phòng - an ninh, có ưu tiên trường hợp yếu thế.
|
3
|
Tác động
|
Ảnh hưởng toàn diện, sâu sắc lên quốc gia, các tổ chức và đặc biệt là doanh nghiệp, quan chức, từng người dân khi tham gia.
|
Như vậy, việc tham gia của các bên vào Hiệp định thương mại thế hệ mới thậm trí làm thay đổi tập quán vốn đã tồn tại lâu đời để quốc gia tiến lên chế độ xã hội mới, nêu họ không muốn đứng ngoài tiến trình phát triển.
*Thách thức từ biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái: Đã muộn khi Việt Nam chưa cải thiện tình được hình vì tần xuất, quy mô và tác động cực lớn của biến đổi khí hậu đến phát triển quốc gia, sản xuất và người dân vì sự tàn phá, nên rất cần quyết tâm chính trị cao, cách làm mới giải quyết.
Tác động của ô nhiễm môi trường ngày càng rõ, đặc biệt nhấn mạnh các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam phải nhận thức và có quyết tâm chính trị cao, làm trung thực, đồng bộ, với phương pháp tiếp cận, cách làm mới, cụ thể trong các ưu tiên hợp lý, khắc phục hạn chế kiểu làm Event hiện nay.
3. Tiềm năng, lợi thế nông sản Việt Nam, xu thế chung và giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển nông nghiệp trong bối cảnh mới
3.1. Tiềm năng, lợi thế nông sản Việt Nam và bối cảnh mới trong nước, quốc tế
* Tiềm năng, lợi thế nông sản Việt Nam: - 2 đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long rộng trên 5 triệu ha, với điều kiện địa hình, thổ nhưỡng, nguồn nước và lượng mưa, thời tiết thuận lợi phát triển nông sản nhiệt đới (lúa gạo, cây ăn quả và thủy sản) và ngoài ra, Tây Nguyên với khoảng 2 triệu ha đất đỏ Bazan,… thuận lợi phát triển cây công nghiệp cà phê, cao su, tiêu, điều cạnh tranh.
- Nông dân Việt Nam có truyền thống canh tác nông nghiệp, với kỹ năng cao nếu có tư duy sản xuất công nghiệp và các nhà khoa học nông nghiệp tham gia hiệu quả hơn, nhất là đầu tư phát triển KH&CN, triển khai mạnh mẽ R&D, I&D, thì kết quả sản xuất, kinh doanh nông sản chủ lực quốc gia sẽ cao hơn, nông sản Việt Nam cạnh tranh tốt, thu giá trị gia tăng cao và phát triển bền vững.
* Xu thế phát triển chung: Từ lý thuyết địa lý kinh tế và lý thuyết cạnh tranh dựa trên khai thác, phát huy tiềm năng, lợi thế, xu thế chung phát triển sản xuất, kinh doanh chung, trong đó có nông nghiệp như sau:
- Đổi mới tổ chức không gian địa lý (cluster) khai thác phát huy tiềm năng, lợi thế khắc phục các hạn chế của kết nối vùng, tỉnh, KNN, CNN nông nghiệp công nghệ cao và các khó khăn, thách thức sản xuất, kinh doanh nông sản Việt Nam.
- Nâng cao sức cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu, mạng sản xuất và mang về giá trị gia tăng cao, phát triển bền vững, Việt Nam nói chung, ngành Nông nghiệp nói riêng cần tập trung đầu tư triển khai R&D, I&D, thực thi quản trị tinh gọn.
3.2. Đổi mới thể chế, đầu tư xây dựng tổ chức, chiến lược, chính sách và tổ chức thực hiện minh bạch
Đổi mới thế chế, tổ chức lại hệ thống tổ chức (Nhà nước, tư vấn và doanh nghiệp), đồng thời ban hành chính sách, chiến lược đầu tư, chính sách thuế, chính sách tiếp cận tài nguyên, chính sách tín dụng… ưu đãi để thu hút các bên vào đầu tư sản xuất, kinh doanh nông sản chủ lực quốc gia xuất khẩu nhằm bảo đảm tự nguyện kết nối, hợp tác, không loại trừ cạnh tranh để cùng thu lợi.
Nhiều năm nghiên cứu chiến lược thấy rằng, đa phần doanh nghiệp Việt Nam nói chung, doanh nghiệp nông nghiệp, trang trại (tổ chức kinh tế cơ sở) chưa nhận thức đúng, tập trung nguồn lực để xây dựng chiến lược kinh doanh của mình, trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng và Việt Nam hội nhập rất sâu rộng vì vậy, đề nghị đây là việc các doanh nghiệp cần phải làm ngay.
3.3. Đổi mới tổ chức không gian địa lý, đầu tư phát triển cluster giải pháp tối ưu phát triển sản phẩm nông sản chủ lực
Nghiên cứu đưa ra kế hoạch hành động và tiếp cận kiểu vừa học, vừa làm để phát triển một số Cluster sản phẩm lợi thế cạnh tranh trọng điểm quốc gia như lúa gạo, tôm cá tập trung địa lý vùng đồng bằng sông Cửu Long và cà phê, cao su…, tập trung địa lý vùng Tây Nguyên nhằm nâng cao sức cạnh tranh, thu giá trị gia tăng cao và phát triển bền vững trong bối cảnh mới.
Phát triển tổ chức không gian hiện đại Cluster theo chu kỳ vòng đời theo 4 giai đoạn, với 3 nội dung cơ bản cần quan tâm là thu hút đầu tư của các bên, nhất là doanh nghiệp chuyên ngành đầu tàu vào SX, KD nông sản chủ lực quốc gia trên cơ sở tự nguyên kết nối, hợp tác và cạnh tranh, cùng có lợi bằng đổi mới và sáng tạo, với ưu tiên tài chính đổi mới công nghệ, nhất là khâu giống.
3.4. Nâng cao sức cạnh tranh dựa trên đầu tư phát triển Hệ thống đổi mới quốc gia về KH&CN, triển khai mạnh mẽ R&D
Chúng tôi đề nghị Việt Nam cần học hỏi và cụ thể hóa phù hợp điều kiện để phát triển Hệ thống đổi mới quốc gia về KH&CN vì đây là khâu yếu nhất của Việt Nam nên năng suất các loại thấp, cụ thể nông sản phải từ khâu giống, cơ giới hóa, khâu thiết kế, chế tạo,tiêu chuẩn sản phẩm và thương hiệu nông sản.
Mặt khác, các viện, trường và doanh nghiệp với sự hỗ trợ của Nhà nước tập trung triển khai R&D, I&D vào sản phẩm nông, công nghiệp chủ lực quốc gia, khắc phục hạn chế hiện tại khoa học và công nghệ nằm ở khâu trung gian, chưa tham gia trực tiếp quá trình sản xuất, kinh doanh, gắn liền hạ lãi xuất cho vay.
3.5. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đầu tư đổi mới công nghệ và trình độ quản trị
Đầu tư chuyển đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp chưa qua đào tạo, sang công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp gắn liền với đào tạo nhằm mục tiêu hình thành đội ngũ lao động có kỹ năng và tâm thế, đáp ứng quá trình công nghiệp hóa.
Thống nhất với các chuyên gia và quản trị cao cấp quốc tế rằng, hiện nay Việt Nam đang thiếu nghiêm trọng kỹ sư công nghệ và quản trị cao cấp, đề nghị Nhà nước, doanh nghiệp tập trung hỗ trợ đào tạo, gắn liền sử dụng hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
- Chính phủ: Các chính sách và đề án tái cơ cấu kinh tế, gắn liền đổi mới mô hình tăng trưởng để năng cao hiệu quả sức cạnh tranh và phát triển bền vững. 2013.
- Dự án 3EM Đắk Nông: Chuỗi giá trị cà phê. 2013.
- Đại học Cần Thơ: Giá trị gia tăng một số sản phẩm nông sản chính. 2013.
- Micheal E. Porter: Báo cáo cạnh tranh Việt Nam 2008, 2010.
- Trần Văn Thọ: Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam. 2005.
- Trần Tiến Khai: ‘Phân tích chuỗi giá trị và ngành hàng nông nghiệp’, Chương trình giảng dậy Kinh tế Fulbright. 2011 - 2013.
- 10. GTZ: Phát triển chuỗi giá trị - công cụ gia tăng giá trị cho sản xuất nông nghiệp. 2009.
- Hoàng Sỹ Động: Để Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất, chế tạo nhìn từ góc độ các ngành sản xuất.
- Hoàng Sỹ Động và cộng tác (Đề tài khoa học cấp bộ): Nâng cao giá trị gia tăng (GTGT) của các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu do các doanh nghiệp Việt Nam tạo ra. 2014.
- Hoàng Sỹ Động và cộng tác (Đề tài khoa học cấp bộ): Giải pháp chủ yếu xuất khẩu nông sản chủ lực sang thị trường Trung Quốc, trong bối cảnh mới. 2015.
Tiếng Anh
1. WB: Cluster for Competitiveness a Practical Guide&Policy Implication for Developing Cluster Inlitiatives. 2009.
2. WB và Hoang Sy Đong: The research on potential Cluster development for the central coasts. 2010.
3. Louise Chamberlain: Cách mạng 4.0 - Định dạng tương lai toàn cầu. 2017.
4. Klaus Schwab: The Fourth Industry Revaluation. 2016.
5. OECD (Conference Centre, Paris): ‘The Next Production Revaluation’, An
Interim Project Report. 2016.
6. WB: Industry 4.0: It’s all about Information Tecnology this time. 2017.
7. Dr Nguyen Anh Thu & other: Improving the Access of Vietnam’s SMEs to Technology Innovation Supports: A case study of the National Technoligy Innovation Fund (NATF). 2017.