PGS. TS. Phạm Văn Hùng
Đại học Kinh tế Quốc dân
Sau hơn 30 năm đổi mới, ngành nông nghiệp đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn còn là sản xuất nhỏ, kinh tế hộ vẫn là chủ yếu. Đặc tính nhỏ lẻ, phân tán chưa đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Nhìn chung, nông nghiệp Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào sức lao động, tài nguyên thiên nhiên và đặc biệt nguy hiểm là phụ thuộc cả vào hóa chất. Vì vậy, đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ có sẽ là một trong những giải pháp mang tính đột phá trong giai đoạn tới. Mặc dù vậy, nhận thức về đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao vẫn còn chưa đầy đủ, các tiêu chí nhận diện và đánh giá đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao vẫn còn những điểm chưa thống nhât, những thuận lợi và khó khăn của việc đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao vẫn con chưa nhận diện chính xác và từ đó vẫn chưa có các giải pháp căn cơ để giải quyết vấn đề.
1. Tiêu chí nhận diện và đánh giá đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao
1.1. Đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao là hoạt động đầu tư gắn liền với việc áp dụng công nghệ tích hợp từ thành tựu khoa học và kỹ thuật hiện đại trong và ngoài nước nhằm tạo ra năng lực sản xuất sản phẩm nông nghiệp có chất lượng, có tính năng vượt trội, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, có vai trò quan trọng trong việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc nâng cấp, hiện đại hóa năng lực sản xuất hiện có gắn với thị trường tiêu thụ và đảm bảo hiệu quả kinh tế cao.
Đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao bao gồm các hoạt động nghiên cứu, phát triển, tìm kiếm, chuyển giao, ứng dụng công nghệ trong sản xuất, cung ứng dịch vụ, phân phối các sản phẩm nông nghiệp. Các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi không chỉ là các sản phẩm có chất lượng tốt, tính năng vượt trội, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường mà còn là các sản phẩm tiếp cận được với thị trường, đảm bảo hiệu quả cho nhà đầu tư. Công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp bao gồm: công nghệ sinh học trong nông nghiệp; kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, bảo quản; công nghệ tự động hóa; công nghệ sản xuất vật tư nông nghiệp; công nghệ phân phối và tiếp cận thị trường…
1.2. Nội dung đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao
1.2.1. Đầu tư phát triển các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Triển khai thực hiện các dự án, đề án quy hoạch tổng thể và quy hoạch chung phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao tại các vùng sinh thái khác nhau; Đầu tư phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao tại các vùng sinh thái nông nghiệp theo quy hoạch tổng thể được phê duyệt; đẩy mạnh triển khai các dự án hỗ trợ hoạt động nghiên cứu – triển khai, các hoạt động đào tạo, sản xuất sản phẩm nông nghiệp có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu của thị trường tại các khu nông nghiệp công nghệ cao; triển khai các dự án hỗ trợ thúc đẩy thu hút đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài vào các khu nông nghiệp công nghệ cao.
1.2.2. Đầu tư phát triển các vùng nông nghiệp ứng dựng công nghệ cao
Triển khai các dự án quy hoạch tổng thể vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn cả nước và quy hoạch chung vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại các địa phương. Đầu tư phát triển các vùng nông nghiệp công nghệ cao tại các địa phương có lợi thế; triển khai nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao trong các vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được công nhận hoặc trong quy hoạch đã được phê duyệt. Đẩy mạnh đầu tư phát triển các vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại các địa phương.
1.2.3. Đầu tư phát triển doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Đầu tư phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Khuyến khích hoạt động khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Quy trình hóa hoạt động đầu tư phát triển sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao rồi nhân bản các doanh nghiệp này. Đầu tư xây dựng các mô hình tốt và phát triển tại các địa bàn có lợi thế. Đẩy mạnh triển khai các dự án hỗ trợ nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới, công nghệ nhập và sản xuất sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại các doanh nghiệp nông nghiệp. Cần xác định, doanh nghiệp sẽ là chủ thể chính trong đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
1.2.4. Đầu tư phát triển hệ thống phân phối sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao
Đầu tư xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao. Xây dựng mối liên kết giữa người sản xuất và các nhà phân phối bán lẻ. Bên cạnh việc tận dụng thị trường hơn 90 triệu dân thì hướng đến thị trường xuất khẩu là rất cần thiết. Ở đây, công nghệ marketing, công nghệ quản lý cũng sẽ là những công nghệ cần phải nghiên cứu và ứng dụng triệt để. Đầu tư phát triển thị trường.
1.2.5. Đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ phụ trợ cho nông nghiệp công nghệ cao
Cần đầu tư phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ cho đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Đầu tư phát triển các dịch vụ môi giới, tư vấn, đánh giá, đầu tư, pháp lý, tài chính, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ và các dịch vụ khác nhằm hỗ trợ hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về công nghệ cao trong nông nghiệp. Đầu tư cho công tác dự báo cả về đầu vào và đầu ra đối với sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
1.3. Các tiêu chí nhận diện và đánh giá đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao
1.3.1. Các tiêu chí chung để nhận diện và đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
1.3.1.1. Tiêu chí về kỹ thuật: là công nghệ có hàm lượng khoa học cao, tích hợp từ các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, tạo ra sản phẩm nông nghiệp có tính năng vượt trội so với công nghệ hiện tại. Phần nhiều mọi người đang thiên về khía cạnh kỹ thuật để xác định tiêu chí. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, cần phải kết hợp các tiêu chí khác thì mới khả thi.
1.3.1.2. Tiêu chí về kinh tế: Nâng cao năng suất gấp ít nhất 2 lần so với công nghệ hiện tại với chất lượng vượt trội, có các giải pháp về thị trường và phân phối sản phẩm. Đáp ứng các chỉ tiêu về hiệu quả đầu tư như NPV, IRR, T…Nếu sản phẩm sản xuất ra mà không tiêu thụ được sẽ không đáp ứng tiêu chuẩn hiệu quả và không được chấp nhận.
1.3.1.3. Tiêu chí về môi trường: Công nghệ áp dụng phải thân thiện với môi trường sinh thái, đảm bảo phát triển bền vững. Nếu áp dụng công nghệ nhưng gây ô nhiễm môi trường, làm ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng sống sẽ không được chấp nhận.
1.3.1.4. Tiêu chí về xã hội: Công nghệ góp phần nâng cao đời sống của người nông dân nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung, được cộng đồng xã hội chấp nhận.
1.3.2. Các công nghệ cụ thể áp dụng trong đầu tư phát triển nông nghiệp
1.3.2.1. Đầu tư phát triển công nghệ sinh học:
Đây là hoạt động nghiên cứu, triển khai hoặc tiếp nhận chuyển giao công nghệ trong đầu tư đối với công nghệ lai tạo giống cây trồng, vật nuôi, giống thủy sản có ứng dụng các kỹ thuật sinh học phân tử để tạo ra các giống cây, con mới có tính năng ưu việt; công nghệ sinh học trong sản xuất các chế phẩm sinh học phục vụ nông nghiệp đảm bảo khía cạnh môi trường (phân bón hữu cơ, phân bón vi sinh, chế phẩm xử lý môi trường…); công nghệ sinh học trong giám định, chuẩn đoán bệnh hại cây trồng, vật nuôi; công nghệ nhân giống bằng nuôi cấy mô tế bào, đột biến phóng xạ; công nghệ tế bào động vật trong đông lạnh tinh, phôi và cấy chuyển hợp tử, phân biệt giới tính, thụ tinh ống nghiệm sản xuất giống vật nuôi; công nghệ vi sinh, enzym và protein ứng dụng sản xuất quy mô công nghiệp, các chế phẩm sinh học dùng trong dinh dưỡng, bảo vệ cây trồng, vật nuôi; công nghệ sinh học, công nghệ viễn thám trong quản lý và phòng ngừa dịch sâu, bệnh hại cây trồng nông nghiệp; công nghệ sinh học phân tử và miễn dịch học, vi sinh vật học trong phòng trị một số loại dịch bệnh nguy hiểm đối với thủy sản.
1.3.2.2. Đầu tư phát triển kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, bảo quản:
Đầu tư công nghệ ứng dụng kỹ thuật canh tác không dùng đất: thủy canh, khí canh, trồng cây giá thể, màng dinh dưỡng; đầu tư ứng dụng công nghệ tưới phun, tưới nhỏ giọt có hệ thống điều khiển tự động hoặc bán từ động; đầu tư ứng dụng công nghệ nhà kính, nhà lưới, nhà màng có hệ thống điều khiển tự động hoặc bán tự động; đầu tư ứng dụng công nghệ chiếu xạ, công nghệ xử lý hơi nước nóng, công nghệ xử lý nước nóng, công nghệ xấy lạnh, sấy nhanh trong bảo quản nông sản; ứng dụng công nghệ mới trong bảo quản và chế biến nông sản: công nghệ bao gói khí quyển kiểm soát; công nghệ bảo quản lạnh nhanh kết hợp với chất hấp thụ etylen để bảo quản rau, hoa quả tươi; công nghệ tạo màng trong bảo quản rau, quả, thịt, trứng; công nghệ lên men, công nghệ chế biến sâu, công nghệ sinh học và vi sinh sản xuất chế biến chế phẩm sinh học và các chất màu, chất phụ gia thiên nhiên trong bảo quản và chế biến nông sản; đầu tư ứng dụng công nghệ thâm canh và quản lý cây trồng tổng hợp; công nghệ sản xuất cây trồng, vật nuôi, thủy sản an toàn theo VietGap; đầu tư ứng dụng công nghệ nuôi thâm canh, nuôi siêu thâm canh thủy sản; đầu tư ứng dụng công nghệ xử lý môi trường trong nuôi trồng thủy sản.
1.3.2.3. Đầu tư áp dụng công nghệ tự động hóa:
Đầu tư áp dụng công nghệ cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất, thu hoạch, chế biến, bảo quản và hệ thống tiêu thụ sản phẩm; đầu tư ứng dụng công nghệ tự động hóa trong tưới tiêu, kết hợp dinh dưỡng trong canh tác cây trồng quy mô hàng hóa; đầu tư ứng dụng công nghệ tự động hóa, bán tự động hóa trong quy trình chăn nuôi quy mô công nghiệp, thâm canh nuôi trồng, chế biện và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; đầu tư áp dụng công nghệ tự động, bán tự động trong đánh bắt thủy hải sản.
1.3.2.4. Đầu tư ứng dụng công nghệ sản xuất vật tư nông nghiệp:
Đầu tư ứng dụng công nghệ nano trong sản xuất các chế phẩm nano, chế phẩm dinh dưỡng cho cây trồng, vật nuôi; đầu tư ứng dụng công nghệ trong sản xuất giá thể, vật tư nông nghiệp, chất bảo quản, màng bao quả, màng phủ nông nghiệp, vật liệu phụ trợ cho hệ thống nhà màng, hệ thống nhà kính, hệ thống tưới, tiêu; đầu tư ứng dụng công nghệ sấy sinh thái, công nghệ ngâm, tẩm để bảo quản gỗ; công nghệ sinh học sản xuất chế phẩm bảo quản, chế phẩm chống mối, công nghệ sản xuất màng phủ thân thiện với môi trường; đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa nhằm tiết kiệm nguyên liệu, thời gian và nâng cao hiệu quả sử dụng gỗ; đầu tư ứng dụng công nghệ thi công công trình thủy lợi; công nghệ lọc và cấp nước ngọt cho các vùng đất nhiễm mặn, ven biển, hải đảo; đầu tư ứng dụng công nghệ vật liệu mới, giải pháp kết cấu mới, thiết bị mới phục vụ thi công công trình thủy lợi; công nghệ xử lý nước thải và vệ sinh môi trường nông thôn.
1.3.2.5. Đầu tư ứng dụng các công nghệ trong quản lý, phân phối sản phẩm và các dịch vụ hỗ trợ khác cho phát triển nông nghiệp:
Để đầu tư ứng dụng công nghệ cao hiệu quả và thành công thì không thể không áp dụng công nghệ quản trị hiện đại trong quản lý đầu tư. Cần quy trình hóa, mô hình hóa hoạt động đầu tư áp dụng công nghệ cao rồi nhân bản các quy trình này trên phạm vi rộng. Đây thực sự cũng là công nghệ trong quá trình quản lý. Bên cạnh đó, áp dụng các công nghệ bán hàng hiện đại, đầu tư phát triển hệ thống phân phối, đầu tư xây dựng các mối quan hệ giữa các nhà đầu tư áp dụng công nghệ cao với các nhà phân phối bán lẻ có sự tham gia của nhà nước và các ngân hàng thương mại. Áp dụng thành công công nghệ trong tiêu thụ và kết nối thị trường sẽ giải quyết được vấn đề đầu ra và sau đó là hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư. Nếu làm tốt vấn đề này thì nông nghiệp công nghệ cao mới bền vững và nhà đầu tư, người nông dân không phải đối mặt với một thực tế chưa vui đó là “được mùa mất giá”.
2. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
2.1. Những thuận lợi của Việt Nam
2.1.1. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang là xu hướng lớn trên toàn cầu, với động lực là sự phát triển khoa học công nghệ. Xu hướng này sẽ tác động lên mọi mặt của nền kinh tế. Trong đó có ngành nông nghiệp. Đây vừa là thời cơ, vừa là sức ép cho Việt nam trong việc đẩy mạnh áp dụng công nghệ cao vào lĩnh vực nông nghiệp khi mà những yếu tố về tài nguyên, về lao động đang có xu hướng giảm. Theo nhận định của các nhà khoa học, cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên nền tảng công nghệ kỹ thuật số và tích hợp cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Thời cơ sẽ nằm ở việc cuộc cách mạng này làm giảm chi phí và thúc đẩy lan tỏa rộng rãi công nghệ, đồng thời tạo cơ hội kết hợp nhiều loại hình công nghệ và làm kích hoạt các làn sóng của những đột phá trong các lĩnh vực khác nhau từ công nghệ gien cho đến công nghệ nano, từ các năng lượng tái tạo đến các tính toán lượng tử. Đồng thời dung hợp các công nghệ này tạo ra sự tương tác của chúng trong các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật và sinh học. Tuy nhiên, thuận lợi này cũng có thể biến thành khó khăn khi trình độ phát triển và năng lực độ ngũ nhân sự còn hạn chế.
2.1.2. Quá trình hội nhập diễn ra ngày càng sâu sắc
Nông nghiệp Việt nam đang bước vào giai đoạn hội nhập ngày càng toàn diện và sâu sắc với các Hiệp định thương mại thế hệ mới bao trùm nhiều khía cạnh như mở cửa thị trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật, đầu tư, lao động, tổ chức thể chế, quản trị, chính sách và môi trường kinh doanh đã và sẽ mở ra những thuận lợi lớn cho nông nghiệp Việt Nam trong việc áp dụng công nghệ mới, hiện đại. Mở rộng thị trường cho xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp áp dụng công nghệ cao, có cơ hội nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ áp dụng công nghệ cao, có cơ hội cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao.
2.1.3. Quyết tâm chính trị của Chính phủ trong thúc đẩy đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Trong thời gian qua, Thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã có những hành động rất mạnh mẽ, vừa có tính chiến lược, vừa có tính thực tiễn liên quan đến phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Ông đã chỉ thị cho các bộ có liên quan có những giải pháp quyết liệt, khả thi để phát triển nông nghiệp công nghệ cao như nghiên cứu lộ trình tiến tới việc xóa bỏ hạn điền và tiến tới tích tụ ruộng đất. trước đó, Chính phủ cũng đã phê duyệt Chương trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao thuộc chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020 (theo quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2012). Gần đây là quyết sách của chính phủ về phát triển nông nghiệp công nghệ cao với gói tín dụng lên đến 100.000 tỷ VNĐ. Trực tiếp Thủ tướng chính phủ cũng đã đến thị sát nhiều dự án nông nghiệp công nghệ cao tại các địa phương trong cả nước.
2.2. Những khó khăn, thách thức của Việt Nam trong đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao
2.2.1. Yếu kém về quy hoạch
Một trong những hạn chế cho đầu tư phát triển nông nghiệp nói chung và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nói riêng tại Việt nam thời gia qua và cũng sẽ là rào cản trong thời gian trước mắt là do quy hoạch ngành chưa hiệu quả và thiếu tính đồng bộ. Việc xây dựng quy hoạch không gắn với thị trường, với nhu cầu trong và ngoài nước về sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao dẫn đến việc người dân tiến hành sản xuất theo phong trào, sản phẩm chất lượng kém, không tiêu thụ được và sau đó là hiệu quả kinh tế không đảm bảo.
2.2.2. Đất đai manh mún, tư duy sản xuất nhỏ lẻ
Hiện nay cả nước có khoảng 75 triệu thửa ruộng, thuộc sở hữu của 9 triệu 259 nghìn hộ gia đình. Do đất đai hiện tại rất manh mún nên nhà đầu tư lớn khó đầu tư áp dụng công nghệ cao để thực hiện cơ giới hóa và tự động hóa để tăng năng xuất, giảm giá thành và nâng cao năng lực cạnh tranh. Do yếu tố lịch sử, 90% đất nông nghiệp vẫn thuộc sở hữu của các hộ gia đình và trang trại, chỉ có 6% thuộc các doanh nghiệp. Trong khi đó, doanh nghiệp sẽ là chủ thể chính để thực thiện áp dụng công nghệ cao. Có thể nói, một trong những khó khăn, rào cản lớn nhất cho đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao là thể chế “hạn điền”.
Sở hữu đất đai manh mún không những ảnh hưởng tiêu cực đến canh tác lớn trong lĩnh vực trồng trọt mà còn ảnh hưởng cả đến ngành chăn nuôi. Mô hình nhỏ lẻ khiến hiệu quả chăn nuôi thấp, người chăn nuôi Việt Nam cần bình quân 3,5-4 kg thức ăn để sản xuất ra 1kg thịt lợn trong khi ở Hoa Kỳ chỉ cần 2,5 kg. Kết quả là sản phẩm thịt tại Việt Nam đắt gấp rưỡi giá thịt ở Hoa Kỳ. Trong khi thu nhập bình quân của người Việt vẫn còn rất khiêm tốn so với Hoa Kỳ [6].
2.2.3. Về yếu kém trong liên kết trong sản xuất, phân phối, tiêu dùng
Hình thức hợp tác, liên kết kinh doanh giữa doanh nghiệp và người nông dân, ngân hàng, nhà nước còn nhiều hạn chế do tập quán canh tác nhỏ lẻ, khả năng tiếp thu và đầu tư khoa học công nghệ bị giới hạn. Để đầu tư phát triển nông nghiệp, cần có nhiều yếu tố như vốn, công nghệ, thị trường… Tuy nhiên, vấn đề thị trường đặc biệt là tổ chức thị trường có ý nghĩa quyết định.
Hiện nay, các doanh nghiệp chỉ mới bao tiêu được khoảng 55% số lượng nông sản làm ra trong các hợp đồng liên kết, còn lại khoảng 45% sản phẩm vẫn phải bán ra thị trường tự do. Vì vậy, tình trạng bấp bênh, rủi ro về giá cả vẫn là một vấn đề lớn đối với những người làm nông nghiệp tại Việt nam [7].
2.2.4. Rào cản về vốn đầu tư
Để đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao cần phải có vốn đầu tư lớn. Bởi vì việc xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đầu tư giống cây trồng, vật nuôi, đào tạo, xay dựng kênh phân phối …yêu cầu về vốn rất lớn. Để đầu tư 1 ha nhà kính hoàn chỉnh có kiểm soát tự động theo mô hình của Israel cần ít nhất khoảng 10-15 tỷ đồng. Đầu tư cho một trang trại chăn nuôi quy mô trung bình cũng phải ở mức 150 tỷ. Đây là mức mà các hộ gia đình khó có thể thực hiện. Trong khi, số doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn hạn chế (chỉ khoảng 3000 doanh nghiệp chiếm 1% số doanh nghiệp cả nước), số dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm gần 3% các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt nam, chiếm chỉ gần 1,5% vốn thực hiện. Như vậy, vốn đầu cũng là một rào cản đáng kể cho đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Hiện tại nông dân vẫn còn quá khó trong tiếp cận vốn vay ngân hàng [9].
2.2.5. Biến đổi khí hậu và vấn đề môi trường sinh thái
Biến đổi khí hậu với những hiện tượng thời tiết cực đoan và thiên tai diễn ra với cường độ và tần suất ngày càng gia tăng đã tác động tiêu cực đến đầu tư và phát triển nông nghiệp trong những năm gần đây. Các tranh chấp về nguồn nước tại lưu vực sông Mê Kong cũng có những ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn nhận khách quan thì những khó khăn đó vẫn còn khá khiêm tốn so với Israel, một quốc gia có diện tích chỉ tương đương với tỉnh Nghệ An, trong đó chỉ khoảng 1/5 diện tích là có thể canh tác nông nghiệp nhưng Israel lại là một trong những điển hình của thế giới về phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Vì vậy, đây có thể là khó khăn, thách thức nhưng đó cũng là sức ép và cơ hội cho đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao hiệu quả tại Việt nam.
2.2.6. Thách thức về sở hữu trí tuệ
Nhận thức về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam hiện vẫn còn hạn chế, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Hệ thống quản lý về sở hữu trí tuệ còn tương đối lỏng lẻo. Việc vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ chẳng hạn như lạm dụng chỉ dẫn địa lý hay nhãn hiệu diễn ra vẫn còn khá phổ biến và thiếu kiểm soát. Một thực tế là, việc quản lý về vấn đề sở hữu trí tuệ chủ yếu khi phát sinh gian lận trong thương mại trên thị trường mà không có sự quản lý từ khâu sản xuất. Do đó có thể dẫn đến nguy cơ mất quyền sở hữu đối với kiến thức truyền thống, công trình sáng tạo và nguồn gen tự nhiên vào tay nhà đầu tư nước ngoài với năng lực và trình độ cao.
3. Một số giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao
3.1. Phải có quy hoạch tổng thể tốt về phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Khi xây dựng quy hoạch phải trả lời đầy đủ 3 câu hỏi cơ bản của kinh tế học: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai?
Trong quy hoạch, cần gắn kết với yếu tố thị trường, xây dựng các kênh phân phối chứ không chỉ đề cập đến vấn đề về vốn.
Công nghệ cao ở đây không phải chỉ là công nghệ sản xuất mà bao gồm cả công nghệ tiếp cận thị trường, công nghệ bán hàng, công ch nghệ phân phối và tiêu thụ sản phẩm.
Quy hoạch vùng sản xuất các sản phẩm chủ lực có gắn với thị trường, tuân thủ các biện pháp thực hành nông nghiệp tốt và theo tiêu chuẩn quốc tế, hướng tới xuất khẩu bền vững.
Trong quy hoạch cần đảm bảo tính liên ngành, liên vùng khi hội nhập. Cần xây dựng cơ chế liên kết giữa các ngành và các tỉnh trong quy hoạch sản xuất, điều phối nguồn lực, tài nguyên để sử dụng hiệu quả nhất.
3.2. Liên kết giữa sản xuất, phân phối, tiêu dùng để giải quyết vấn đề đầu ra cho nông nghiệp công nghệ cao
Theo lý thuyết gia tốc đầu tư, đầu tư phụ thuộc vào nhu cầu. Vì vậy, để đầu tư phát triển sản xuất cần phải nắm chắc nhu cầu và bám sát nhu cầu của thị trường. Trong thời gian tới, theo quan điểm của chúng tôi, việc tổ chức tốt thị trường tiêu thụ sản phẩm sẽ là vấn đề trọng tâm của nông nghiệp Việt Nam. Để đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao cần phải làm tốt mối liên kết giữa sản xuất, phân phối, tiêu dùng.
Có chính sách hỗ trợ, xây dựng, phát triển hệ thống doanh nghiệp nông nghiệp có đủ khả năng kết nối sản xuất với thị trường. Phát triển các doanh nghiệp phân phối bản lẻ của Việt nam trong phân phối các sản phẩm nông nghiệp nội địa. Tiến tới xây dựng Sở giao dịch hàng hóa nhằm hạn chế các rủi ro về giá trên thị trường. Tăng cường liên kết dịch vụ nông nghiệp và phát triển hệ thống bán lẻ nông phẩm. Đầu tư áp dụng công nghệ chế biến để tạo ra sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao.
Đầu tư phát triển hệ thống xúc tiến thương mại và đầu tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tiếp cận, tìm kiếm, mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước. Hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường. Phát triển các doanh nghiệp đầu mối lớn có thương hiệu của Việt nam nhằm cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao. Hỗ trợ các doanh nghiệp nông nghiệp sử dụng công nghệ thông tin, xây dựng thương hiệu và chiếm lĩnh thị trường. Doanh nghiệp cần bao tiêu sản phẩm đầu ra đối với cánh đồng mẫu lớn, giám sát từ khâu giống, đến nuôi trồng, thu hoạch và sau đó là chế biến để đảm bảo chất lượng sản phẩm và có giá trị gia tăng cao.
3.3. Xây dựng các mô hình đầu tư tốt và nhân bản các mô hình này
Hiện tại một số mô hình đầu tư phát triển nông nghiệp cao cũng đã xuất hiện với hiệu quả kinh tế xã hội bước đầu là tích cực như mô hình Khu nông nghiệp công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh, Khu nông nghiệp công nghệ cao An Thái (Bình Dương), Khu nông nghiệp công nghệ cao Mộc Châu; mô hình các điểm sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại hà Nội, Hải phòng; mô hình vùng sản xuất chuyên canh ứng dụng công nghệ cao như mô hình 100 trang trại trồng nấm ở huyện Bình nhu mô hình 100 trang trại trồng nấm ở huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc), mô hình trồng hoa áp dụng công nghệ mới tại Mê Linh (Hà Nội). Cần chuẩn hóa quy trình của các mo hình này và nhân bản tại các địa phương khác.
Nhà nước cần hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp trong việc liên hệ trực tiếp với thị trường tiêu thụ, bỏ qua các trung gian, từ đó xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc.
Để có mô hình tốt cần khuyến khích, hỗ trợ phong trào khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Tăng cường đào tạo nhân lực chất lượng cao có khả năng tiếp cận, vận hành và ứng dụng kết quả chuyển giao công nghệ mới trong nuôi trồng và phân phối sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao phù hợp với điều kiện, nhu cầu của từng vùng, miền. Có chính sách ưu tiên đào tạo cán bộ khoa học khoa học công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao bao gồm cả lao động quản lý, lao động nghiệp vụ kỹ thuật và người lao động trực tiếp sản xuất.
3.4. Giải quyết tốt vấn đề tích tụ và tập trung ruộng đất và khơi thông nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Thực hiện có hiệu quả chính sách dồn điền đổi thửa nhằm xử lý vấn đề đất đai manh mún, thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất để giúp người nông dân và doanh nghiệp có cơ hội sản xuất lớn và ứng dụng công nghệ trong sản xuất. Có cơ chế cho nông dân góp vốn cổ phần thông qua đất đai để cùng đầu tư ứng dụng công nghệ cao trên thửa đất của họ. Đồng thời tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là hạ tầng giao thông đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hóa và ứng dụng công nghệ cao.
Tăng nguồn vốn đầu tư cho hoạt động khoa học – công nghệ trong nông nghiệp. Cần tăng vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng các khu nông nghiệp công nghệ cao. Tổ chức cung ứng tín dụng kịp thời với lãi suất hợp lý và gia tăng thêm tỷ trọng đối với các hình thức vay dài hạn, trung hạn nhằm hỗ trợ vốn cho nông dân và doanh nghiệp đầu tư vào các vùng chuyên nông nghiệp công nghệ cao.
Đồng thời, đẩy mạnh thủ tục hành chính, đơn giản hóa các thủ tục, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ để khuyến khích các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong nước và nước ngoài mạnh dạn đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
3.5. Đầu tư phát triển các công nghiệp và dịch vụ phụ trợ cho nông nghiệp nghệ cao
Đẩy mạnh đầu tư phát triển các công nghiệp, dịch vụ phụ trợ cung ứng các yếu tố đầu vào, tiêu thu các sản phẩm đầu ra của nông nghiệp công nghệ cao. Thúc đẩy việc cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ phát triển nông nghiệp công nghệ cao đồng thời tiến tới xã hội hóa các dịch vụ hỗ trợ đối với các lĩnh vực mà khu vực tư nhân có thể đảm nhiệm: quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, sở hữu trí tuệ, phân tích và phát triển thị trường, theo dõi, đánh giá và giám sát về áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp.
Giải quyết tốt vấn đề sở hữu trí tuệ. Luật sở hữu trí tuệ cần bổ sung các quy định đảm bảo bảo vệ được các quyền sở hữu của Việt nam đối với các sản phẩm công cộng, như nguồn gen tự nhiên, kiến thức truyền thống. Đồng thời hệ thống quản lý chỉ dẫn địa lý cần được thống nhất và thực thi tốt hơn, đảm bảo quyền lợi cho các sản phẩm có chỉ dẫn địa lý. Các chính sách về tài nguyên và môi trường cần gắn với vấn đề biến đổi khí hậu, do biến đổi khí hậu có thể dẫn đến những điều chỉnh về cơ cấu cây trồng, địa bàn sản xuất, phương thức sản xuất, công nghệ áp dụng và đặc biệt sản xuất phải gắn với nhu cầu thị trường.
4. Kết luận
Để đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao hiệu quả thì không chỉ quan tâm đến vấn đề kỹ thuật, công nghệ sản xuất mà cần chú ý thỏa đáng hơn đến công nghệ tổ chức thị trường, marketing, xây dựng các kênh phân phối và đặc biệt là xây dựng được mối liên kết giữa sản xuất và phân phối. Phải mở rộng được đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao. Để tạo mối liên kết này cần đảm bảo sự hài hòa lợi ích của tất cả các bên tham gia. Cụ thể là vừa phải đảm bảo hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp, tăng thêm thu nhập cho nông dân, giảm giá thành và đảm bảo chất lượng sản phẩm cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó, việc chuẩn hóa quy trình, cam kết đảm bảo chất lượng và xây dựng niềm tin dựa trên sự bảo đảm của thương hiệu uy tín sẽ góp phần tạo ra sự thành công của chương trinhg phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Làm tốt mối liên kết có tính tương hỗ cho sự phát triển cũng sẽ giải quyết được rào cản về “hạn điền” nhằm tạo điều kiện đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao bền vững./.