ThS. Lương Hương Giang
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Đối bất kỳ một hoạt động đầu tư nào thì vấn đề nguồn huy động vốn cho hoạt động đầu tư đó có thể huy động từ đâu luôn là bài toàn đặt ra cho các nhà đầu tư. Đầu tư vào nông nghiệp là một lĩnh vực đầu tư khá rủi ro và mức độ sinh lời thấp hơn so với nhiều lĩnh vực đầu tư khác. Vậy thì mức độ và khả năng huy động vốn của từng nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế cho phát triển nông nghiệp Việt nam trong thời gian tới sẽ như thế nào?
Mục tiêu cơ bản của bài viết là: (1) Khát quát các nguồn vốn đầu tư có thể huy động cho đầu tư phát triển nông nghiệp sạch ở Việt Nam; (2) Xem xét khả năng và mức độ huy động vốn từ từng nguồn cho đầu tư phát triển nông nghiệp sạch tại Việt nam.
Từ khóa: nguồn vốn đầu tư, nông nghiệp sạch
- Nguồn vốn Ngân sách Nhà nước
Để có thể phát triển được vùng sản xuất nông nghiệp sạch, đảm bảo tiêu chuẩn GAP thì hệ thống hạ tầng cơ sở đảm bảo tiêu chuẩn là điều kiện tối cần thiết. Chính vì vậy, nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn vốn quan trọng để tạo vùng quy hoạch, góp phần tạo tiền đề phát triển vùng sản xuất đảm bảo tiêu chuẩn GAP. Theo Quyết định số 01/2012/QĐ-TTg, ban hành ngày 9/1/2012, về một số chính sách hỗ trợ việc áp dụng Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản thì nguồn vốn ngân sách nhà nước để phát triển sản xuất nông nghiệp đảm bảo tiêu chuẩn GAP được huy động dưới 2 hình thức là huy động để thực hiện đầu tư ban đầu và huy động cho hỗ trợ phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước: nguồn vốn ngân sách nhà nước được huy động 100% để đầu tư cho điều tra cơ bản, khảo sát địa hình, phân tích mẫu đất, mẫu nước, mẫu không khí để xác định các vùng sản xuất tập trung thực hiện các dự án sản xuất nông nghiệpáp dụng VietGAP.
Nguồn vốn hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước: bên cạnh việc đầu tư 100% cho điều tra, khảo sát ban đầu, nguồn vốn ngân sách Nhà nước còn được huy động để hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư phát triển vùng sản xuất đảm bảo tiêu chuẩn GAP bao gồm:
- Hỗ trợ cho đầu tư xây dựng cơ bản gồm xây mới và cải tạo (nhưng không quá 50% tổng vốn đầu tư) cho hệ thống đường giao thông, thủy lợi, trạm bơm, trạm điện hạ thế, hệ thống cấp thoát nước và hệ thống xử lý nước thải của vùng sản xuất đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của tiêu chuẩn GAP.
- Hỗ trợ cho công tác đào tạo, tập huấn cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ khuyến nông và dạy nghề cho lao động nông thôn các kỹ thuật ứng dụng tiêu chuẩn GAP trong sản xuất và sơ chế sản phẩm.
- Hỗ trợ chi phí tài liệu phục vụ công tác đào tạo, tập huấn như chi phí biên soạn tài liệu, chi phí in ấn tài liệu, biểu mẫu,…
- Hỗ trợ thuê tổ chức đánh giá chứng nhận để cấp Giấy chứng nhận sản phẩm an toàn.
- Hỗ trợ cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sử dụng giống cây trồng có khả năng kháng sâu bệnh; hỗ trợ trong sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học hoặc thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học; hỗ trợ cho việc áp dụng quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), quản lý cây trồng tổng hợp (ICM).
- Hỗ trợ cho các hoạt động xúc tiến thương mại để tiêu thụ sản phẩm theo tiêu chuẩn.
- Hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại trong nước và xuất khẩu như: hỗ trợ hoạt động nghiên cứu thị trường, xây dựng cơ sở dữ liệu các thị trường trong nước và xuất khẩu trọng điểm theo từng ngành hàng; hỗ trợ thực hiện các hoạt động tuyên truyền xuất khẩu như quảng bá ngành hàng, thực hiện truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo, tạp chí, truyền thanh, truyền hình, internet); hỗ trợ thuê chuyên gia tư vấn trong và ngoài nước tư vấn phát triển sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường xuất khẩu, thâm nhập thị trường nước ngoài; hỗ trợ đào tạo tập huấn ngắn hạn trong và ngoài nước nhằm nâng cao nghiệp vụ xúc tiến thương mại; hỗ trợ tổ chức tham gia hội chợ triển lãm thương mại; hỗ trợ tổ chức đoàn giao dịch thương mại tại nước ngoài; hỗ trợ tổ chức hội nghị quốc tế,…
- Nguồn vốn tín dụng thương mại
Nguồn vốn tín dụng thương mại là nguồn vốn vay của các ngân hàng, tổ chức tài chính của Chính phủvà các tổ chức tài chính quy mô nhỏ cho các hoạt động đầu tư nông nghiệp. Trước năm 2010, chỉ có ngân hàng Agribank được phép thực hiện cho vay đối với các dự án nông nghiệp (Theo quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn). Nhưng từ khi Nghị định 41/2010/NĐ-CP ban hành ngày 12/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn ra đời thì các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính quy mô nhỏ, các ngân hàng, các tổ chức tài chính của Chính phủđã được quyền tham gia cho vay các dự án nông nghiệp. Bước đột phá tiếp theo của kênh huy động vốn tín dụng này cho các dự án nông nghiệp là Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, ban hành ngày 09/06/2015 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Sau thời điểm nghị định này được ban hành thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt nam cũng có thể tham gia cho vay đối với các dự án nông nghiệp. Như vậy, các tổ chức tín dụng được phép tham gia vào việc cung cấp nguồn vốn tín dụng cho các dự án nông nghiệp nói chung và các dự án nông nghiệp theo tiêu chuẩn GAP nói riêng ngày càng được mở rộng.
Các tổ chức tín dụng cung cấp nguồn vốn vay cho các dự án nông nghiệp có thể cho vay dưới rất nhiều hình thức như cho vay lưu vụ (cho vay có tính chất mùa vụ theo chu kỳ sản xuất của cây trồng); cho vay theo hạn mức tín dụng; cho vay từng lần; cho vay dự án theo chỉ định của Chính phủ, cho vay theo các chương trình dự án bằng vốn tài trợ nước ngoài,…
Đối tượng được phép tiếp cận đến nguồn vốn vay này từ cá nhân, hộ gia đình, chủ trang trại, các hợp tác xã, tổ hợp tác có hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp đến các doanh nghiệp cung cấp vật tư nông nghiệp đầu vào cho sản xuất nông nghiệp và thu mua, chế biến, tiêu thụ các sản phẩm, phụ phẩm nông nghiệp.
Về mức lãi suất cho vay của các dự án sản xuất sản phẩm nông nghiệp theo tiêu chuẩn GAP thì theo Quyết định số 813/QĐ-NHNN ngày 24/04/2017 về chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, các dự án nằm trong danh mục các dự án nông nghiệp sạch được vay vốn với mức lãi suất ưu đãi. Cụ thể, với tất cả các nhu cầu vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đều được vay với mức lãi suất thấp hơn từ 0.5%/ năm đến 1.5%/năm so với mức lãi suất cho vay thông thường cùng kỳ hạn của ngân hàng thương mại. Chênh lệch giữa mức lãi suất ưu đãi và lãi suất thông thường của ngân hàng được Ngân sách Nhà nước cấp bù. Số vốn vay này được sử dụng để đầu tư cơ sở hạ tầng, mua máy móc thiết bị cho sản xuất, mua cây giống, phân bón,...
Nguồn vốn tín dụng thương mại hiện nay được coi là nguồn vốn đầu tư quan trọng phục vụ nhu cầu đầu tư cho nông nghiệp.
- Nguồn vốn ODA
Một kênh huy động vốn nữa cho đầu tư phát triển nông nghiệp sạch theo tiêu chuẩn GAP là nguồn vốn hỗ trợ, viện trợ, hợp tác kỹ thuật của các quốc gia phát triển và các tổ chức quốc tế như UNDP, PAM, FAO, ADB, WB, IMF, JIBIC/JICA, AUSAID,… Mặc dù nguồn vốn ODA dành cho nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 7-8% tổng vốn ODA dành cho Việt Nam nhưng đối với ngành nông nghiệp thì đây là một nguồn vốn đã có đóng góp đáng kể cho sự phát triển của ngành nông nghiệp.
Hai nhà tài trợ đa phương lớn nhất của ngành nông nghiệp là Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). Hai đối tác này tài trợ trên 50% tổng vốn ODA vào nông nghiệp, trong đó ADB là đối tác tài trợ lớn nhất với tổng vốn hỗ trợchiếm gần 30%. Ngoài ra còn một số các nhà tài trợ khác như JBIC/JICA chiếm khoảng 9%, DANIDA khoảng 4,6%, AUSAID là 4,3 %, và các nhà tài trợ khác có tỷ lệ khoảng 2-3%. Nếu như nguồn vốn của các tổ chức ADB, WB và JIBIC chủ yếu tập trung vào các dự án vay vốn thì các nhà tài trợ khác chủ yếu là thực hiện các chương trình hợp tác, phát triển, tăng cường năng lực dưới dạng hỗ trợ không hoàn lại. Đối tác tài trợ song phương lớn nhất cho phát triển nông nghiệp sạch theo hướng bền vững chính là Nhật Bản. Nguồn tài trợ của Nhật Bản cho phát triển nông nghiệp sạch tại Việt Nam được thực hiện dưới dạng các dự án hỗ trợ kỹ thuật, viện trợ không hoàn lại, hỗ trợ khẩn cấp. Thông qua các dự án hỗ trợ phát triển ngành, hỗ trợ khoa học và công nghệ nông nghiệp, các trang thiết bị phục vụ nghiên cứu được tăng cường, nhiều giống cây trồng vật nuôi tốt được nghiên cứu và ứng dụng trong sản xuất.
Như vậy, đối với một nước nông nghiệp mà mức độ ứng dụng công nghệ trong phát triển nông nghiệp đang còn non trẻ như Việt Nam thì nguồn vốn ODA là một nguồn vốn quan trọng để công nghiệp hóa ngành nông nghiệp, đảm bảo một nền nông nghiệp đảm bảo tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt.
- Nguồn vốn FDI
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, khi mà nguồn vốn đầu tư từ trong nước còn rất nhiều hạn chế, không đủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển trong nước thì nguồn vốn FDI cũng là một kênh huy động vốn có thể huy động để phát triển ngành nông nghiệp đảm bảo tiêu chuẩn. Trong xu thế hội nhập và mở cửa của nền kinh tế thì việc thu hút dòng vốn ngoại để phát triển ngành nông nghiệp là rất cần thiết và cũng là một hướng đi đúng. Tuy nhiên, so với các lĩnh vực đầu tư khác thì việc huy động nguồn vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp có thể nói là không dễ dàng. Bởi lẽ, nông nghiệp là một ngành tương đối rủi ro do tác động của thiên tai, chưa kể rủi ro về thị trường. Thêm vào đó, đặc điểm của đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp là có tính thời vụ nên chậm thu hồi vốn và hiệu suất sinh lời thấp. Vì vậy, nếu các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với lĩnh vực đầu tư này không rõ ràng, không đảm bảo lợi nhuận cho các nhà đầu tư nước ngoài thì việc thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Thực tế cho thấy, hiện nay số dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp chiếm một tỷ lệ rất nhỏ cả về số lượng dự án cũng như quy mô vốn đầu tư so với các lĩnh vực đầu tư khác và có xu hướng ngày càng giảm. Nếu như vốn FDI vào Việt Nam tăng đều qua các năm thì vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp lại giảm dần. Cách đây 15 năm, tỷ trọng vốn đầu tư FDI vào lĩnh vực nông nghiệp chiếm 15% tổng vốn đầu tư FDI thì đến nay chỉ chiếm khoảng 1,5%. Bình quân mỗi năm, ngành nông nghiệp chỉ thu hút được khoảng 20 dự án FDI với giá trị khoảng 130 triệu USD. Không chỉ giảm về quy mô mà cơ cấu đầu tư vào ngành nông nghiệp cũng không đồng đều. Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào các dự án có khả năng thu hồi vốn nhanh như lĩnh vực chế biến nông sản thực phẩm; chế biến lâm sản, chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc. Trong 2 năm trở lại đây, nguồn vốn FDI vào nông nghiệp cũng đã bắt đầu khởi sắc hơn với sự xuất hiện của một số dự án FDI từ các quốc gia có công nghệ nông nghiệp phát triển là Nhật Bản, Hàn Quốc, bắt đầu từ cuối năm 2014, một số doanh nghiệp Nhật Bản đã tìm cơ hội đầu tư vào nông nghiệp như Yanmar, Maruyama MFG, Marumasu Kikai, Nankai Kinzoku,…Các doanh nghiệp này không chỉ quan tâm đến các cơ hội đầu tư các dự án nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam, mà còn muốn xuất khẩu sang đây các loại máy móc nông nghiệp. Tập đoàn Micware hợp tác với Quảng Ngãi triển khai dự án nuôi trồng thủy sản và công nghệ nuôi trồng thủy sản theo quy trình công nghệ Nhật Bản. Thái Lan có 2 dự án và Pháp có 1 dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Bến Tre trong lĩnh vực chế biến sâu nông sản. Các dự án này hoạt động rất hiệu quả.
Đứng trước tiềm năng và lợi thế của ngành nông nghiệp Việt Nam, bắt đầu từ năm 2014, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã bắt đầu xây dựng dự thảo “Đề án tăng cường thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông lâm nghiệp giai đoạn 2015-2020, định hướng đến năm 2030”. Đề án này được xem là cú hích để
thúc đẩy và tăng cường hiệu quả thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp trong thời gian tới.
- Nguồn vốn đầu tư tư nhân
Cùng với các kênh huy động vốn đầu tư khác, nguồn vốn tư nhân hiện được đánh giá là nguồn vốn đầu tư rất có tiềm năng đang được khuyến khích thu hút vào lĩnh vực nông nghiệp “sạch”, nông nghiệp “thông minh”. Nguồn vốn tư nhân đầu tư vào nông nghiệp có thể được thực hiện dưới 2 hình thức: thứ nhất là đầu tư trực tiếp vào các dự án đầu tư phát triển nông nghiệp áp dụng tiêu chuẩn Gap, Global Gap hoặc các dự án đầu tư sử dụng công nghệ cao; thứ hai là mua cổ phần của các công ty nông nghiệp thông qua thị trường chứng khoán. Để có thể huy động tốt nguồn vốn tư nhân vào lĩnh vực nông nghiệp thì những mâu thuẫn và chồng chéo trong chính sách đối với nông nghiệp, đặc biệt là vấn đề sở hữu đất đai và vấn đề tích tụ, tập trung ruộng đất để có thể sản xuất theo quy mô lớn cần phải được giải quyết triệt để.
Nếu như trước đây, nguồn vốn đầu tư tư nhân vào lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu là của các hộ nông dân với mức tích lũy rất thấp (từ 12-17 triệu đồng/năm), vốn đầu tư ít, chủ yếu là đầu tư vào giống, thức ăn,… thì hiện nay ngành nông nghiệp đã thu hút được nguồn vốn từ các doanh nghiệp. Thậm chí, ngành nông nghiệp đã đón nhận được sự đầu tư mạnh mẽ của rất nhiều các tập đoàn kinh tế như Tập đoàn Vingroup, Tập đoàn thép Hòa Phát, Tập đoàn FPT, tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai,… Các tập đoàn kinh tế này đã huy động một nguồn vốn đầu tư lớn vào việc phát triển một nền nông nghiệp “sạch” và một nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Minh chứng cho điều này đó là, để đón đầu hiệp định tự do thương mại AFTA và dự báo nhu cầu lương thực thế giới đến năm 2050, Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn SSI cho rằng, toàn cầu sẽ thiếu nguồn lương thực vào năm 2050, vì vậy SSI đã đầu tư 1500 tỷ vào ngành sản xuất gạo và thủy sản. Tập đoàn thép Hòa Phát đầu năm 2015 cũng thành lập một công ty con với vốn điều lệ 300 tỷ để đầu tư sang lĩnh vực chăn nuôi. Hòa Phát đã xây dựng một nhà máy mới với công suất hằng năm đạt 300.000 tấn thức ăn. Đến năm 2020, công ty sẽ dự kiến sẽ đạt sản lượng 1 triệu tấn và phát triển đàn lợn lên một triệu con mỗi năm. Tập đoàn Vingroup, mạnh tay đầu tư 91 triệu USD để trồng rau quả bên cạnh mảng kinh doanh truyền thống là trung tâm thương mại, trường học và bệnh viện. Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai cũng đưa một công ty con vào hoạt động trong ngành chăn nuôi bò sữa và trồng cây công nghiệp. Các đại gia ngành công nghệ thông tin, điện máy như ông Nguyễn Đức Tài - Chủ của thương hiệu Thế Giới Di Động, Điện máy Xanh hay ông Trương Gia Bình - Chủ tịch Tập đoàn FPT cũng đã đầu tư vào nông nghiệp thông minh, nông nghiệp sạch.
Như vậy, vốn đầu tư tư nhân là một nguồn vốn rất tiềm năng, cần được khuyến khích và khai thác để huy động vốn cho sự phát triển một nền nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Việt Nam trong giai đoạn tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Vương Đình Huệ (2013), “Nâng cao hiệu quả đầu tư công cho nông nghiệp, nông dânvànôngthôn”,TạpchíCộngsảnđiệntử,truycậptừ http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/nong-nghiep-nong- thon/2013/21330/Nang-cao-hieu-qua-dau-tu-cong-cho-nong-nghiep-nong- dan.aspx
- Quyết định Số: 01/2012/QĐ-TTg, ban hành ngày 9/1/2012 “Vê một số chính sách hỗ trợ việc áp dụng Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản”
- Quy chế kèm theo quyết định số 72/2010/QĐ-TTgcủa Thủ tướng Chính phủ , ban hành ngày 15/11/2010, “Quy chế xây dựng, quản lý và thực hiện chương trình xúc tiến thương mại quốc gia”.
- Đài phát thanh và truyền hình Cần Thơ (2013), “Đẩy mạnh hút ODA vào nông nghiệp”, truy cập ngày 27/06/2017 từhttp://canthotv.vn/day-manh-hut-oda-vao- nong-nghiep.
- Trung Nam (2014), “Ngành nông nghiệp thu hút được 5,5 tỷ USD vốn ODA tron giai đoạn 1993-2003”, truy cập ngày 27/06/2017 từ http://baodauthau.vn/dau-tu/nganh-nong-nghiep-huy-dong-duoc-55-ty-usd-von- oda-trong-giai-doan-19932013-15188.html,
- Trần Kim Long và Lê Thành Văn (2015), “Nhìn lại 20 năm vận động ODA của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giai đoạn 1996-2015”, truy cập ngày 17/6/2017 từ https://kinhtetrunguong.vn/10/-
/view_content/content/191885/nhin-lai-20-nam-van-%C4%91ong-oda-cua- nganh-nong-nghiep-va-phat-trien-nong-thon-giai-%C4%91oan-1996-2015,
- “Các hình thức đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn”, truy cập ngày 12/06/2017 từ http://voer.edu.vn/m/cac-hinh-thuc-dau-tu-cho-nong-nghiep-va-nong- thon/b6191d4a.
- Tạp chí Tài chính (2015), “Thu hút đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp: Cơ hội từ việc thay đổi chính sách”, truy cập ngày 01/07/2017 từhttp://tapchitaichinh.vn/kinh-te-vi-mo/kinh-te-dau-tu/co-hoi-tu-viec-thay-doi- chinh-sach-64994.html.