GS.TS. Nguyễn Xuân Trạch
Phó Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam
The livestock sector, globally and in Vietnam, has been intensified in response to rapidly increasing demand for livestock products. The production response in different livestock systems has been associated with science and technology as well as increases in animal numbers. Hi-tech applications in breeding, nutrition, housing and animal health will be largely applied and continue to contribute to increasing potential production and further efficiency. However, it is likely to be increasingly affected by socio-economic factors such as human health concerns, livelihood of small farmers, prosperity of rural communities, socio-cultural values as well as environmental and animal welfare concerns. Smart measures should be taken in application of hi-tech livestock production to ensure sustainable development.
Keywords: livestock; hi-tech, production; development; sustainability
- Đặt vấn đề
Chăn nuôi là một hoạt động kinh tế cơ bản ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới. Các hệ thống chăn nuôi khác nhau đã được hình thành và phát triển trong một thời gian dài của lịch sử. Gần đây chăn nuôi thế giới phát triển rất nhanh chóng theo hướng hiện đại hóa và ứng dụng công nghệ cao (CNC) nhằm đáp ứng nhu cầu thực phẩm chất lượng cao ngày càng tăng của con người và thu được lợi nhuận tối đa, nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều bất ổn do những rủi ro về kinh tế - xã hội, môi trường và phúc lợi động vật (Thornton, 2010). Đó là con dao hai lưỡi đòi hỏi người dùng phải hiểu thấu đáo thì mới hy vọng sử dụng có hiệu quả, nếu không thì phải trả giá rất đắt. Gần đây Chính phủViệt Nam đã có chủ trương đẩy mạnh phát triển nông nghiệp công nghệ cao, trong đó có chăn nuôi. Các địa phương và doanh nghiệp coi đây là một cơ hội lớn và đang rất tích cực hưởng ứng. Câu hỏi đặt ra là chủ trương thúc đẩy phát triển nông nghiệp này sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống của người nông dân và sự thịnh vượng của cộng đồng nông thôn? Làm thế nào để phát triển chăn nuôi CNC một cách bền vững? Bài viết này nhằm phân tích phản biện về tính hai mặt của chăn nuôi CNC trong mối liên quan đến “tam nông” và đưa ra một số quan điểm về việc triển khai ứng dụng CNC trong chăn nuôi.
- Chăn nuôi truyền thống
Trước khi phân tích về tính hai mặt của chăn nuôi ứng dụng CNC chúng ta cần đánh giá lại tính hai mặt của chăn nuôi truyền thống. Chăn nuôi truyền thống thường là một bộ phận của các hệ thống canh tác hỗn hợp (mixed farming systems) được thực hiện bởi các nông hộ. Các hệ thống canh tác này phối hợp chăn nuôi với trồng trọt, có thể bao gồm cả nuôi trồng thủy sản và/hay lâm nghiệp, sao cho mặc dù mỗi hợp phần có thể hoạt động độc lập nhưng chúng lại bổ sung được cho nhau. Sản phẩm chính của các hợp phần được sử dụng cho tiêu thụ của nông hộ hay bán ra thị trường, trong khi
đó các phụ phẩm của mỗi hợp phần (ví dụ như phân chuồng) lại được dùng làm đầu vào cho các hợp phần khác (làm phân bón ruộng hay nuôi cá chẳng hạn).
Lợi ích của các hệ thống kết hợp này là toàn hệ thống cho ra được một khối lượng sản phẩm lớn hơn tổng cộng những sản phẩm đơn lẻ của các hợp phần. Những hệ thống này cho phép giảm thiểu chất thải nhờ tái sử dụng và cũng nhờ vậy mà làm giảm bớt nhu cầu đối với nguyên liệu từ bên ngoài và giảm rủi ro cho nông dân. Cùng với việc tái sử dụng các chất thải các hệ thống sản xuất kết hợp như vậy còn giúp cho việc bảo vệ môi trường và duy trì tính đa dạng sinh học nhờ việc sử dụng các nguyên liệu bản địa. Đó cũng là lý do nông nghiệp truyền thống đòi hỏi ít hoá chất và cơ bản là hữu cơ, đảm bảo an toàn thực phẩm. Nhờ những hệ thống nông nghiệp trong đó chăn nuôi và trồng trọt phối hợp và tận dụng phụ phẩm của nhau nên chúng ta đã có được một nền nông nghiệp bền vững. Giáo sư Orskov (2001), một nhà khoa học hàng đầu của nước Anh và thế giới, một cựu chuyên gia của FAO, người đã có nhiều hợp tác nghiên cứu ở Việt Nam, đã nhận xét rằng “Việt Nam đang dẫn đầu với mục tiêu tăng cường khai thác dinh dưỡng từ các nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo nhằm tăng cơ hội công ăn việc làm ở nông thôn”. Preston (1995) một cựu chuyên gia phát triển chăn nuôi bền vững khác của FAO, chủ bút Tạp chí Nghiên cứu chăn nuôi để phát triển nông thôn (LRRD) cũng công nhận “... nếu đánh giá về mặt nông nghiệp bền vững thì Việt Nam thuộc vào những nước đi đầu”.
Tuy nhiên, các hệ thống chăn nuôi nông hộ truyền thống thường không cho được năng suất cao nên không thể đáp ứng đủ nhu cầu thực phẩm cho nhu cầu ngày càng tăng nhanh của con người và cho hiệu quả kinh tế thấp. Đó là vì chăn nuôi theo kiểu truyền thống khó áp dụng hiệu quả các tiến bộ kỹ thuật về di truyền - giống, dinh dưỡng - thức ăn, thú y và đặc biệt là các công nghệ chăn nuôi hiện đại với trình độ cơ giới hóa, tự động hóa và tin học hóa cao. Sản phẩm của chăn nuôi truyền thống khó đáp ứng được nhu cầu về số lượng và yêu cầu về chất lượng cho thị trường xuất khẩu. Do đó, chăn nuôi truyền thống khó tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu nên hạn chế trong việc mang lại giá trị gia tăng lớn trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, cần có cách tiếp cận mới để phát triển chăn nuôi nông hộ an toàn và hiệu quả (Vũ Duy Giảng, 2014).
- Chăn nuôi công nghệ cao
Nhằm đáp ứng đủ nhu cầu về thực phẩm nguồn gốc động vật ngày càng tăng nhanh của con người, với sự ứng dụng hiệu quả các thành tựu của khoa học và công nghệ, ngành chăn nuôi gần đây đã được hiện đại hóa về công nghệ và cho ra đời nhiều hệ thống chăn nuôi thâm canh. Chăn nuôi thâm canh hiện đại thường áp dụng các công nghệ hiện đại (về giống, thức ăn, chuồng trại, thú y với máy móc hiện đại, áp dụng công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học) nên được gọi là chăn nuôi công nghiệp hay là chăn nuôi công nghệ cao. Chăn nuôi CNC thường áp dụng hình thức nuôi nhốt với mật độ cao, trại chăn nuôi hoạt động giống như một nhà máy (factory farming). Phần lớn các sản phẩm thịt, trứng, sữa được bán trong các siêu thị hiện nay trên thế giới đượcsảnxuấtbởichănnuôicôngnghệcao.Theoướctínhhiệncókhoảng74%thịtgia cầm, 43% thịt bò và 68% trứng gia cầm trên thế giới được sản xuất kiểunày.
Những lợi ích chính của chăn nuôi CNC có thể kể đến là:
- Mang lại thu nhập lớn cho doanh nghiệp nhờ tạo ra được năng suất sản phẩm lớn nhất trên mỗi đơn vị tài nguyên sử dụng với giá thành thấp nhất nhờ quy mô sản xuất lớn và áp dụng các công nghệ sản xuất có hiệu quả cao;
- Đáp ứng được nhu cầu thực phẩm có nguồn gốc động vật ngày càng tăng của xã hội, trong đó có cả những người thu nhập thấp, nhờ tạo ra được khối lượng sản phẩm lớn với giá bán rẻ;
- Có thể tham gia chuỗi giá trị và thương mại toàn cầu nhờ đáp ứng được yêu cầu về nguồn cung cũng như chất lượng sản phẩm theo tiêu chí của thị trường và có thể truy xuất được nguồn gốc;
- Đem lại tăng trưởng kinh tế cho địa phương và quốc gia nhờ đóng thuế từ doanh nghiệp chăn nuôi và các dịch vụ hỗ trợ mới hình thành;
- Có thể tạo thêm công ăn việc làm cho một bộ phận dân cư và cơ hội khởi nghiệp cho doanh nghiệp địa phương trên cơ sở các ngách thị trường có giá trị gia tăng mới;
- Tạo giá trị gia tăng cho một số sản phẩm địa phương (kể cả phụ phẩm nông nghiệp) có thể làm đầu vào cho chăn nuôi của doanh nghiệp;
- Đa dạng hóa thành phần cộng đồng dân cư (do tuyển dụng công nhân từ các địa phương khác đến) làm phong phú nền văn hóa địa phương.
Ngoài những lợi ích tiềm năng nói trên chăn nuôi công nghệ cao có thể đem lại cả những rủi ro. Các vấn đề bao gồm hiệu quả sản xuất, tác động môi trường, nguy cơ về sức khỏe của con người, đời sống của nông dân sản xuất nhỏ, sự thịnh vượng chung của cộng đồng nông thôn và phúc lợi động vật (animal welfare).
Ở Việt Nam, nhằm thoả mãn nhu cầu đang ngày càng tăng nhanh về các sản phẩm động vật thì việc thâm canh chăn nuôi là một xu hướng tất yếu trong điều kiện đất chật người đông. Tuy vậy, việc xây dựng các cơ sở chăn nuôi thâm canh quy mô lớn với các công nghệ hiện đại được nhập từ nước ngoài vào nhằm đạt được năng suất cao lại rất có thể sẽ dẫn đến những hậu quả không phù hợp với các mục tiêu phát triển bền vững hiện nay như xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, bình đẳng xã hội, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, đảm bảo phúc lợi động vật.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước đang phát triển thì mặc dù chăn nuôi công nghệ cao có thể mang lại nhiều hơn sản phẩm trên một đơn vị tài nguyên, do vậy mà đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng cho tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu, nhưng các công nghệ chăn nuôi thâm canh như vậy (nhất là công nghệ ngoại nhập) hầu như không vượt qua được những trở ngại thường gặp phải trong các hệ thống sản xuất của địa phương hay không đáp ứng được các yêu cầu kinh tế - xã hội của người nông dân
(Sansoucy, 1997). Những hậu quả sau đây của việc áp dụng các hệ thống chăn nuôi công nghệ cao có thể xảy ra và rất cần được xem xét.
- Nguy cơ làm tăng thất nghiệp và nghèo đói cho nông dân
Một vấn đề quan trọng đang được quan tâm là phải thâm canh chăn nuôi bằng cách nào ở một nước có mật độ dân số cao mà đa số lại sống ở nông thôn. Thâm canh chăn nuôi với việc sử dụng các công nghệ nhập từ các nước phát triển có nghĩa là sử dụng tối thiểu lao động và sử dụng tối đa các thiết bị tiết kiệm lao động. Chính các công nghệ sử dụng tiết kiệm lao động lại đòi hỏi sử dụng nhiều nhiên liệu hoá thạch.
Có hai yếu tố dẫn đến việc sử dụng các hệ thống chăn nuôi như vậy là giá lao động cao và giá nhiên liệu rẻ. Đây không phải là trường hợp như của Việt Nam, một nước mà 80% dân số sống ở nông thôn và khoảng 70% trong số họ phải dựa vào nông nghiệp để kiếm công ăn việc làm và thu nhập. Giá nhiên liệu/năng lượng của Việt Nam cũng không hề thấp do phải nhập siêu.
Việt Nam hiện vẫn đang phải đương đầu với một vấn đề lớn là sự nghèo đói ở khu vực nông thôn đang cần được giảm thiểu khẩn cấp. Trong vòng những năm tới vấn đề thách thức là phải xoá đói giảm nghèo ở nông thôn trong khi mà chỉ một bộ phận rất nhỏ dân cư có thể được hấp thụ vào các doanh nghiệp (Orskov, 2001). Việc đưa vào áp dụng các cơ sở chăn nuôi công nghiệp quy mô lớn và hiện đại sẽ gây khó khăn cho những người sản xuất nhỏ vì họ không thể cạnh tranh được đối với các nguồn lực sẵn có cũng như thị trường (Ogle and Phuc, 1997) và họ cũng có thể không có đủ kỹ năng cho các công việc quản lý tinh xảo cần thiết (Preston, 1995).
Điều này rốt cuộc sẽ dẫn đến việc giảm cơ hội công ăn việc làm ở nông thôn và dễ dàng biến vấn đề thất nghiệp nông thôn thành vấn đề thất nghiệp thành thị thậm chí còn tệ hại hơn trong khi các ngành công nghiệp và dịch vụ chưa hấp thụ hết số lao động nông thôn dôi dư này.
Do vậy, chăn nuôi công nghệ cao có thể mang lợi cho một số ít người có tiềm lực (và trục lợi được chính sách), mang lại nguồn thu cho ngân sách, nhưng với sự trả giá của số đông những người sẽ mất phần của mình đối với các nguồn lợi chung, kể cả hữu hình và vô hình, và mất cơ hội việc làm.
Chăn nuôi nông hộ ở nước ta hiện nay vẫn vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế và cung cấp thực phẩm cho toàn dân. Với khoảng 8 triệu hộ chăn nuôi gia cầm và 4 triệu hộ chăn nuôi lợn, hàng năm sản xuất ra 60-70% tổng lượng thịt toàn quốc. Thu nhập về chăn nuôi luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng thu nhập của hộ nông dân, riêng thu nhập về chăn nuôi lợn của các hộ nông dân ở vùng Đông Bắc hay đồng bằng Sông Hồng đã chiếm từ 50-61% tổng thu nhập của mỗi hộ (Đinh Xuân Tùng và cs., 2012). Các doanh nghiệp chăn nuôi CNC quy mô lớn chắc chắn sẽ đe dọa sinh kế của hàng triệu nông hộ này vì đã số họ sẽ không tiếp tục chăn nuôi được nữa và nhiều tác động tiêu cực về mặt xã hội sẽ xảy ra.
- Rủi ro về kinh tế cho người chăn nuôi
Các hệ thống chăn nuôi thâm canh dựa trên con giống, công nghệ và thức ăn ngoại nhập rất dễ bị rủi ro vì phải phụ thuộc vào những thay đổi giá cả và sự sẵn có của các nguồn đầu vào, chưa nói gì đến những khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường quốc tế đầy biến động. Đấy là chưa nói đến hậu quả của việc phát triển chăn nuôi CNC mà không kết nối được với thị trường/chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong điều kiện bình thường người sản xuất có thể kiếm lợi được nhiều qua việc sử dụng các thức ăn nhập khẩu rẻ tiền, nhưng doanh nghiệp của họ rất mẫn cảm với bất kỳ một sự bất ổn nào về kinh tế (Le Viet Ly, 2000; Lê Viết Ly và cs., 2004). Nguy cơ của việc áp dụng các công nghệ nhập nội không phù hợp đã được minh chứng rất rõ qua cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây (1997-1998) ở các nước Đông Nam Á khác. Chẳng hạn, ở Indonexia có tới 80% doanh nghiệp gia cầm bị phá sản, gây ra rất nhiều vần đề về cung cấp thực phẩm và suy dinh dưỡng (Orskov, 2001). Nhìn chung, các hệ thống thâm canh này sẽ làm tăng nhập siêu do phải nhập khẩu nhiều. Hơn nữa, người sản xuất đòi hỏi phải có kỹ năng quản lý cao và trình độ chuyên môn cao trong khi lợi nhuận cận biên có thể rất nhỏ. Theo Orskov (2001) một số nước như Nigeria và Venezuela đã xây dựng ngành chăn nuôi thâm canh kỹ thuật cao nhờ có đầu tư từ thu nhập dầu khí, nhưng những hệ thống chăn nuôi như vậy đã không đứng vững khi giá dầu hạ và trợ giá nông nghiệp bị cắt giảm.
Khủng hoảng về chăn nuôi lợn hiện nay ở nước ta (2017) là một minh chứng rất rõ rệt về rủi ro về kinh tế quá cao cho người chăn nuôi khi áp dụng chăn nuôi công nghệ cao, chỉ chú trọng chăn nuôi mà không gắn được với chuỗi giá trị toàn cầu. Chăn nuôi lợn công nghệ cao không chỉ đã được áp dụng trong các doanh nghiệp quy mô lớn mà cả ở quy mô nông hộ (giống ngoại, thức ăn công nghiệp) nên đã phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu và thị trường đầu ra. Chăn nuôi lợn nông hộ ở nước ta hiện không còn là chăn nuôi nhỏ lẻ nữa. Số lượng lợn trung bình thường xuyên có mặt ở các hộ nông dân là 125,6 con/hộ; trong đó lợn nái là 17,13 (giao động từ 8-35 con), lợn thịt là 108,5 con/hộ (giao động từ 22-180 con) (Trần Quốc Việt và cs., 2012). Chăn nuôi nông hộ cũng không còn là chăn nuôi phân tán nữa mà là chăn nuôi tập trung theo quy mô thôn xã (trong một xã có tới 50-60% số hộ có chăn nuôi). Nếu khu vực này bị tổn thương, sẽ là một gánh nặng cho xã hội và toàn nền kinh tế.
Hiện tại, Việt Nam đang có một đàn lợn (hầu hết là giống ngoại nhập) đứng thứ 4 trên thế giới với một lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp đứng đầu Đông Nam Á. Khi một lượng lớn lợn được sản xuất vượt quá nhu cầu tiêu thụ trong nước mà xuất khẩu gặp khó khăn thì khủng hoảng thừa đã xảy ra và người gánh chịu hậu quả nặng nề nhất về kinh tế là những người chăn nuôi nông hộ đã tham gia vào chuỗi chăn nuôi công nghệ cao nhưng không kết nối được với chuỗi giá trị toàn cầu.
- Tác động tiêu cực đến môi trường và đa dạng sinh học
Bảo về môi trường và đa dạng sinh học đang được người ta quan tâm đến ngày càng nhiều. Đó là vì các hoạt động của con người đang gây ra đến mức báo động về sự ô nhiễm không khí, phá rừng, xói mòn đất, ô nhiễm đất trồng và nguồn nước và mất tính đa dạng sinh học; tất cả những điều này đang ảnh hưởng đến mưu sinh và sức khoẻ của con người và đe doạ đến sự phát triển bền vững (Preston, 1995). Các cơ sở chăn nuôi công nghiệp quy mô lớn hiện đại một phần dựa trên thức ăn nhập khẩu và giống ngoại gần đây đã phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam. Việc này dễ dẫn đến những vấn đề về môi trường bởi vì trong các cơ sở sản xuất như vậy một số lượng lớn vật nuôi với mật độ cao sẽ sản sinh ra quá nhiều chất thải trong khi không có đủ cây trồng để tái sử dụng chúng. Các cơ sở chăn nuôi như vậy cũng sẽ làm giảm số lượng các vật nuôi bản địa vốn có sức kháng bệnh rất cao và sử dụng rất tốt các nguồn thức ăn tại chỗ, đặc biệt là các phụ phẩm nông nghiệp.
- Tác động tiêu cực đến sự ổn định xã hội và sự thịnh vượng của cộng đồng địa phương
Chăn nuôi CNC đi đôi với việc tập trung chăn nuôi với mật độ rất cao ở các địa phương. Các cơ sở chăn nuôi lớn này có thể mang lại những nguồn lợi, cơ hội mới cho địa phương, nhưng đồng thời cũng kèm theo nhiều thách thức lớn cho cộng đồng, đặc biệt là trong bối cảnh đất ngày càng chật, người ngày càng đông.
Những tác động tiêu cực chính lên cộng đồng địa phương có thể kể đến là:
- Gây ô nhiễm môi trường làm giảm chất lượng cuộc sống và sức khỏe của cư dân
địa phương;
- Mâu thuẫn về quyền sử dụng sử dụng đất và các tài nguyên khác với cư dân bản địa;
- Làm xuống cấp hạ tầng cơ sở của địa phương, đặc biệt là cầu đường và tắc nghẽn giao thông;
- Sản phẩm chăn nuôi công nghiệp cạnh tranh với sản phẩm chăn nuôi truyền thống, đe dọa sự ổn định sinh kế của những người sản xuất nhỏ lẻ mà không có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp;
- Chính quyền phải quản lý phức tạp các hoạt động dịch vụ và cư dân mới;
- Tăng khả năng xung đột và mất an ninh trật tự trong cộng đồng do khác nhau về văn hóa và cạnh trang nguồn lực trong cư dân.
- Vô nhân đạo đối với vật nuôi
Một trong những quan ngại lớn nhất trên thế giới hiện nay là chính quá trình “hiện đại hóa kỹ thuật và thương mại hóa vì lợi nhuận đã làm cho chăn nuôi trở nên vô nhân đạo hơn với chính đối tượng chăn nuôi, tước bỏ đi những phúc lợi cơ bản của con vật” (Broom and Fraser, 2007). Quá trình chọn giống vật nuôi của con người đã tạo ra những giống vật nuôi hiện đại cho năng suất cao nhưng không còn được “tự nhiên” như tổ tiên của chúng. Về mặt dinh dưỡng, vật nuôi nuôi thâm canh bị stress rất nặng về trao đổi chất do phải ăn và chuyển hóa nhiều dinh dưỡng để đảm bảo cho nhu cầu
sản xuất cao với nhiều tác động tiêu cực tới phúc lợi (Webster, 1994). Về chuồng trại, chăn nuôi công nghiệp đã biến chuồng nuôi thành xưởng máy (factory farming), ở đó vật nuôi chỉ là cỗ máy để biến nguyên liệu là thức ăn thành các sản phẩm chăn nuôi mà không được hưởng các phúc lợi cần thiết, nhất là thể hiện các tập tính tự nhiên. Chuồng nuôi chật hẹp là nguyên nhân làm cho vật nuôi phải trải qua những đau đớn về thể chất và tinh thần, bao gồm sự què quặt do xương và cơ yếu, da bị trầy xước, những vấn đề về tim mạch, tiêu hóa và những vấn đề về tiết niệu. Kèm theo đó là gia tăng những tập tính khác thường của vật nuôi như nhai giả và gặm thanh chắn, biểu hiện của sự bất lực và căng thẳng. Đó chỉ mới là một vài ví dụ về những vi phạm về phúc lợi động vật trong chăn nuôi hiện đại.
- Nguy cơ bệnh tật và sản phẩm chăn nuôi chất lượng thấp
Điều kiện chăn nuôi công nghiệp không đảm bảo phúc lợi động vật cũng là một nguyên nhân làm cho vật nuôi dễ bị bệnh tật và giảm chất lượng thực phẩm của sản phẩm chăn nuôi. Chăn nuôi hiện đại gắn liền với việc nhốt vật nuôi với số lượng lớn và mật độ cao nên vật nuôi rất dễ bị stress và tỷ lệ chết thường rất cao. Hơn nữa mỗi khi xảy ra dịch bệnh truyền nhiễm thì khả năng lây truyền rất nhanh. Thêm vào đó, việc sử dụng kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi công nghiệp sẽ dẫn đến tính kháng kháng sinh trong vật nuôi làm cho các giải pháp điều trị vô hiệu quả. Chăn nuôi CNC sử dụng các loại con giống cho năng suất cao, điều đó thường đồng nghĩa với chất lượng dinh dưỡng kém (do tương quan âm về di truyền giữa năng suất và chất lượng sản phẩm). Hơn nữa, chăn nuôi CNC sử dụng thức ăn công nghiệp được phối trộn theo sự hiểu biết của con người về dinh dưỡng vật nuôi. Các loại thức ăn công nghiệp này không cho được sản phẩm có chất lượng dinh dưỡng và ẩm thực tốt như các loại thức ăn tự nhiên. Mặt khác, trong thức ăn công nghiệp thường có các loại phụ gia, nhất là kháng sinh và các chất, kích thích sinh trưởng, hoóc-môn điều khiển sinh sản,… Điều này đem lại nguy cơ lớn đến sức khỏe của người tiêu dùng vì chúng sẽ tồn dư trong thực phẩm. Đó là chưa nói đến cuộc tranh luận về việc sử dụng các nguồn nguyên liệu biến đổi gen (GMO) phổ biến hiện nay như ngô và đỗ tương nhập khẩu làm thức ăn chăn nuôi có ảnh hưởng đến sức khỏe của con người hay không.
- Phát triển chăn nuôi công nghệ cao bền vững
Do những tác động tiêu cực nêu trên của chăn nuôi công nghiệp hiện đại nên ngành chăn nuôi thế giới đang nhanh chóng chuyển dịch theo hướng phát triển chăn nuôi thông minh/văn minh để hài hòa được lợi ích kinh tế của chăn nuôi với lợi ích của cộng đồng, của môi trường và chính bản thân vật nuôi (animal welfare) hướng tới mục tiêu phát triển bền vững (Hình 1).
Hình 1. Xu hướng phát triển chăn nuôi
Do vậy, ngành chăn nuôi ở nước ta cũng không nên lặp lại những sai lầm của phát triển chăn nuôi công nghiệp hiện đại của thế giới mà cần tận dụng được lợi thế của người đi sau để đảm bảo vừa đem lại giá trị gia tăng vừa phát triển bền vững trong mối quan hệ hữu cơ với “tam nông”, không chỉ vì phát triển nông nghiệp mà nông dân và nông thôn phải trả giá, chưa nói đến phúc lợi vật nuôi. Muốn vậy, cần ứng dụng CNC một cách thông minh cùng các giải pháp đồng bộ nhằm đạt được 4 mục tiêu trụ cột có liên quan đến nhau như sau (Hình 2):
Hình 2. Các mục tiêu trụ cột của phát triển chăn nuôi công nghệ cao bền vững
- Đảm bảo lợi ích kinh tế: Chăn nuôi trước hết là một hoạt động kinh tế, do đó doanh nghiệp/hộ chăn nuôi phải có lợi nhuận và góp phần vào tăng trưởng kinh tế chung của địa phương và quốc gia. Công nghệ quyết định năng suất và hiệu quả chăn nuôi, do vậy cần ứng dụng CNC vào chăn nuôi để đảm bảo mục tiêu này. Tuy nhiên, PGS.TS. Bùi Hữu Đoàn (trao đổi riêng) đã đưa ra nhiều dẫn chứng cho thấy muốn chăn nuôi CNC bền vững, không thể chỉ chú ý đầu tư vào khâu sản xuất mà phải quan tâm đến
toàn bộ quá trình, từ sản xuất đến chế biến, bảo quản và thương mại sản phẩm chăn nuôi trên toàn chuỗi giá trị.
- Đảm bảo sự thịnh vượng của cộng đồng: Phát triển chăn nuôi CNC không được phép gây tổn hại đến sinh kế của nông dân, làm giảm chất lượng cuộc sống của cộng đồng, trong đó có việc đảm đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng.
- Bảo vệ môi trường sinh thái: Chăn nuôi phải giảm thiểu ô nhiễm môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học. Việc này có liên quan chặt với sức khỏe cộng đồng và bảo tồn nguồn lợi cho các thế hệ mai sau.
- Tôn trọng vật nuôi: Chăn nuôi phải đảm bảo phúc lợi động vật. Đây không chỉ đơn thuần là vấn đề đạo đức đối với động vật mà còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội - môi trường và là một đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng văn minh trong bối cảnh hội nhập. Ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ không kết nối được với chuỗi giá trị toàn cầu nếu không đảm bảo được phúc lợi cho vật nuôi.
Nội dung chi tiết của 4 nhóm giải pháp nói trên có thể tham khảo trong tài liệu của Nguyễn Xuân Trạch (2017).
Có thể ví việc ứng dụng CNC trong chăn nuôi như việc sử dụng “thuốc Tây” để chữa bệnh cho con người. Đó là việc ứng dụng những thành tựu y học hiện đại để chữa bệnh có hiệu quả hơn; tuy nhiên, nó cần có sự chỉ định đúng đắn của bác sĩ, không được sử dụng tùy ý, để giảm thiểu các tác động phụ nguy hiểm. Cũng chính vì thế, để có chỗ đứng trong tương lai chăn nuôi ứng dụng CNC không thể thiếu vai trò điều tiết và quản lý của Nhà nước để giảm thiểu rủi ro nhằm đảm bảo giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
- Kết luận
Chăn nuôi ứng dụng CNC là một xu hướng phát triển nhằm tận dụng lợi thế của KHCN để tăng năng suất và hiệu quả chăn nuôi. Nó có thể đem lại năng suất chăn nuôi cao trên mỗi đơn vị tài nguyên/đầu tư và giảm giá thành sản phẩm, do đó mà mang lại lợi nhuận cao và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, chăn nuôi CNC cũng mang lại nhiều rủi ro về kinh tế - xã hội, môi trường và phúc lợi động vật. Để phát triển chăn nuôi bền vững việc ứng dụng CNC phải được thực hiện một cách thông minh và có điều kiện, trong đó vai trò điều tiết của Nhà nước là hết sức quan trọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Broom, D.M. and Fraser, A.F. (2007).Domestic Animal Behaviour and Welfare, 4th Edition. Wallingford, CABI.
- Đinh Xuân Tùng, Đỗ Văn Đức, Hàn Anh Tuấn, Nguyễn Đăng Thanh, Lê Tiến Dũng (2012). Thực trạng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi lợn ở các tỉnh phía Bắc. Báo khoa học Viện Chăn nuôi năm 2011. Hà Nội tháng 11/2012. Tr. 315- 327.
- Le Viet Ly (2000). Development of a sustainable animal production system based on the advantage of tropical agriculture. Workshop-seminar on “Making better use of local feed resources”. January, 2000. SAREC-UAF.
- Lê Viết Ly, Lê Văn Liễn, Bùi Văn Chính, Nguyễn Hữu Tào (2004). Phát triển chăn nuôi bền vững trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. NXB Nông nghiệp - Hà Nội.
- Nguyễn Xuân Trạch (2017). Bài giảng Phát triển chăn nuôi bền vững. Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
- Ogle B. and Phuc B.H.N. (1997). Sustainable intensive livestock-based systems in Vietnam. IRDCurrent 14: 16-22.
- Orskov E.R. (2001). Sustainable resources management and rural development in Vietnam. Paper presented at the seminar on ruminant nutrition held in Hanoi on 12 January 2001 by Vietnam Animal Husbandry Association.
- Preston T.R. (1995). Strategy for sustainable use of natural renewable resources: constrains and opportunities. Tropical Feeds and Feeding Systems. FAO. Pp: 121-144.
- Sansoucy R. (1997). Livestock - a driving force for food security and sustainable development. IRDCurrent 13/14: 4-11.
- Thornton P. K. (2010). Livestock production: recent trends, future prospects. 365: 2853–2867.
- Trần Quốc Việt, Trần Thị Bích Ngọc, Lê Văn Huyên, Nguyễn thị Hồng, Trần Việt Phương, Sầm Văn Hải, Ninh Thị Huyền (2012). Báo Khoa học Viện Chăn nuôi năm 2011. Hà Nội tháng 11/2012. Tr. 338-350.
- Vũ Duy Giảng (2014). Cách tiếp cận mới để phát triển chăn nuôi nông hộ an toàn và hiệu quả. Báo Nông nghiệp Việt Nam, 27/03/2014.