ThS. Đinh Anh Tuấn
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Trong vòng hơn chục năm trở lại đây, nền nông nghiệp Việt Nam đã có những bước chuyển biến rõ rệt sang hướng ứng dụng công nghệ cao với hàng loạt những tác động mang tính cơ bản của Chính phủ, những khoản đầu tư làm chuyển dịch xu hướng từ khu vực tư nhân và sự tiếp nhận tích cực từ phía thị trường. Việc xác lập rõ ràng các tiêu chí đánh giá phát triển của một nền nông nghiệp sáng tạo đòi hỏi cần có những cơ sở lý thuyết nền tảng nhằm đưa ra một hệ thống các tiêu chí thống nhất và hiệu quả. Bài viết dưới đây với mục đích tóm lược các cơ sở lý thuyết về mô hình nền nông nghiệp sáng tạo ứng dụng tri thức và công nghệ, đồng thời dựa trên các hệ thống tiêu chí đánh giá quốc tế và khu vực để đưa ra các đề xuất trong tiêu chuẩn lựa chọn, tính chất dữ liệu và phương thức phân tích của các tiêu chí đánh giá nền nông nghiệp sáng tạo ứng dụng công nghệ cao tại các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Từ khoá: nông nghiệp, công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, tiêu chí
- Đặt vấn đề
Nông nghiệp Việt Nam chuyển hướng
Xuất phát điểm từ năm 2010, đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tầm nhìn đến năm 2020 được Chính phủphê duyệt đã chính thức cho thấy những hành động cụ thể của Nhà nước trong việc nhìn nhận mức độ quan trọng và khẩn thiết của việc chuyển hướng cho ngành nông nghiệp. Mục tiêu của đề án nhằm xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, đạt mức tăng trưởng trên 3,5%/năm. Từ đó hỗ trợ thực hiện các vai trò chung của nền nông nghiệp bao gồm đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
Song hành cùng với việc phê duyệt đề án, hàng loạt những hành động cụ thể đã đi vào thực tế từ Chính phủnhằm tạo lập nền tảng chính sách và pháp luật cho việc hỗ trợ phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Ngay sau khi Luật công nghệ cao ra đời, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản phê duyệt chương trình ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Thời điểm tháng tư năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đồng thời phê duyệt Quy hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Theo văn bản này, Việt Nam sẽ xây dựng 10 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trước năm 2020. Tính tới thời điểm hiện nay, tám khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã được thành lập thông qua quyết định của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Tuy nhiên, nghiên cứu của Nguyễn Văn Phượng (2017) cho thấy quy hoạch nông nghiệp công nghệ cao tại các địa phương vẫn đang ở tình trạng quy hoạch trên giấy tờ văn bản, mức độ triển khai thực tế còn rất thấp, nhiều địa phương vẫn đang trong quá trình hoàn thiện cơ sở pháp lý, có nơi các hoạt động đầu tư vẫn dừng lại ở quy mô nhỏ.
Trong lúc đó, quan sát từ thị trường cho thấy nông nghiệp công nghệ cao lại đang trở thành sức hút cho nhiều nhà đầu tư nội địa tham gia vào lĩnh vực này, bao gồm Tập đoàn TH; Tập đoàn VinGroup; Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai; Tập đoàn Hòa Phát; Tập đoàn FPT và nhiều nhà đầu tư khác.
Việc chuyển hướng mới của nền nông nghiệp Việt Nam là một bước đi đúng đắn. Có thể thấy các nghiên cứu trên thế giới cũng khẳng định đổi mới sáng tạo trong kỹ thuật, áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp là hướng đi cần thiết để giảm đói nghèo, thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển. Do đó, việc tìm ra định hướng cho các khoản đầu tư và cách thức hoạch định chính sách nhằm cải thiện việc nghiên cứu, đào tạo và áp dụng kỹ thuật nông nghiệp sẽ giữ vai trò to lớn trong việc khuyến khích các đổi mới sáng tạo trong công nghệ đối với cả hai nhóm đối tượng các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách (Alston, Pardey, and Taylor, 2001; Alston, Norton, and Pardey, 1998). Tuy nhiên việc xác định mức độ phù hợp của việc can thiệp thông qua đầu tư và hệ thống chính sách trong ngành nông nghiệp đang ngày càng đòi hỏi đáp ứng những yêu cầu phức tạp và khó khăn hơn. Khi này, mục tiêu của các quốc gia đang phát triển đang chuyển dần từ việc nâng cao năng suất và tỷ suất lợi nhuận sang chuyển đổi nền nông nghiệp thành một hệ thống đổi mới sáng tạo có tính phản ứng, đa dạng và cạnh tranh cao hơn. Vì vậy, nền nông nghiệp Việt Nam cũng sẽ sớm cần phải xác định cụ thể hơn mục tiêu để tương đồng với khối các nền nông nghiệp đang phát triển.
Sự cần thiết về việc xây dựng tiêu chí đánh giá nông nghiệp sáng tạo ứng dụng công nghệ cao
Việc chuyển đổi mục tiêu cải tiến và phát triển nền nông nghiệp bắt nguồn từ những thay đổi rõ rệt trong cấu trúc của hệ thống nông nghiệp và thực phẩm toàn cầu, bao gồm cả sự hội nhập của các nền nông nghiệp tại các quốc gia vào thị trường thế giới, sự gia tăng vai trò của người tiêu dùng là nhân tố quyết định hướng đi cho việc chuyển đổi công nghệ, sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực tư nhân trong các hoạt động đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, và hơn hết là cuộc cách mạng công nghệ thông tin và truyền thông đang diễn ra bùng nổ (World Bank, 2006). Những yếu tố này
– kết hợp cùng với việc gia tăng nhận thức việc sáng tạo trong nông nghiệp hiện đã vượt xa mức độ phức tạp như thường nghĩ – đặt ra một nhu cầu về việc xem xét lại các công cụ và mô hình phân tích kèm các chỉ tiêu đánh giá. Các tiêu chí đánh giá này sẽ trở thành cơ sở chỉ ra việc các chính sách và các khoản đầu tư làm thế nào có thể tác động một cách tích cực nhất tới các hoạt động cải tiến công nghệ và sáng tạo trong lĩnh vực nông nghiệp, từ đó có tiến tới đạt các mục tiêu xoá đói giảm nghèo và cải thiện sinh kế một cách bền vững tại các khu vực nông thôn nghèo.
Cho tới thời điểm hiện tại, phương pháp phân tích được áp dụng ngày càng phổ biến trong việc trả lời các câu hỏi liên quan đến việc đánh giá sự phát triển của một nền nông nghiệp sáng tạo đó là tiếp cận nền nông nghiệp dưới góc độ một hệ thống sáng tạo. Nói cách khác, là việc mô hình hoá nền nông nghiệp thành một hệ thống sáng tạo với các chủ thể, tìm hiểu các chủ thể, đối tượng tương tác với nhau trong quá trình tạo lập, trao đổi và sử dụng kiến thức có liên quan tới nông nghiệp trong các hoạt động xã hội và kinh tế, bao gồm việc xem xét cả các yếu tố hoàn cảnh, điều kiện diễn ra các hoạt động đó.
Các nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận này đã và đang nắm bắt được những thay đổi thực tế của nền nông nghiệp tại các quốc gia đang phát triển bằng cách áp dụng và phát triển các nghiên cứu trước đây dựa trên hai mô hình được gọi là nền nông nghiệp dựa trên nghiên cứu (NARS) và nền nông nghiệp dựa trên tri thức và thông tin (AKIS). Trong khi các nghiên cứu trước đây dựa trên hai mô hình này chủ yếu tập trung vào vai trò của giáo dục, nghiên cứu, và trang bị kiến thức, công nghệ mới cho đối tượng nông dân, thì mô hình mới với tên gọi nền nông nghiệp sáng tạo (AIS) lại đặt đối tượng nông dân vào trong mô hình với tư cách là một chủ thể gắn kết với quá trình đổi mới sáng tạo, đồng hành cùng với các chủ thể chính thức, phi chính thức và môi trường chính sách có ảnh hưởng trực tiếp tới các quá trình đó.
Thực tế là, mô hình AIS thể hiện cho việc chuyển đổi từ góc nhìn khá đơn giản về việc áp dụng công nghệ cao, đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp chỉ đơn thuần là kết quả của quá trình nghiên cứu, phát triển, và phổ biến công nghệ mới, sang một góc nhìn mới ghi nhận đổi mới sáng tạo là một mạng lưới phức tạp gồm các cá nhân và tổ chức liên quan – bao gồm cả khu vực tư nhân và phi lợi nhuận – tất cả mọi chủ thể đều đóng góp một phần nào đó cho việc ứng dụng các thông tin và kiến thức mới hoặc đang tồn tại. Mô hình AIS cân nhắc tới các vấn đề mới như khả năng học tập và tiếp nhận, thay đổi và sáng tạo của các cá nhân và tổ chức, bản chất của quá trình tương tác giữa các đối tượng sáng tạo, và các hình thức can thiệp có thể nâng cao khả năng và kết quả của quá trình đổi mới sáng tạo.
Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện tại, phần lớn các nghiên cứu về các nền nông nghiệp tại các quốc gia đang phát triển áp dụng mô hình AIS lại tập trung vào các mối quan hệ giữa các chủ thể – cụ thể như việc phân tích mối liên hệ giữa các viện nghiên cứu của Nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân, và đối tượng nông dân tham gia trong một quá trình đổi mới áp dụng công nghệ cao nào đó. Bên cạnh đó, những nghiên cứu này phần lớn thực hiện với một loại nông phẩm hoặc một công nghệ cụ thể chứ không đi vào các vấn đề rộng hơn như việc cải cách chính sách hay hiệu quả trong việc xoá đói giảm nghèo (Spielman, 2006).
Bài viết này sẽ tìm hiểu cách thức sử dụng các mô hình tiếp cận này cho các mục tiêu đặt ra tại các nên nông nghiệp của các quốc gia đang phát triển, và chỉ ra một số các hạn chế có thể gặp phải. Trọng tâm sẽ là việc những loại tiêu chí nào có thể được sử dụng tốt nhất cho việc đo lường hiệu quả, cũng như kết quả, quá trình, và tác động của việc áp dụng nông nghiệp công nghệ cao.
Tại Việt Nam, hiện Ngân hàng Nhà nước đang khẩn trương phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ rà soát, xây dựng tiêu chí xác định chương trình, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Những chú ý về việc xây dựng tiêu chí đánh giá cần được nhìn nhận ở những tầm nhìn rộng hơn nhằm đi đến việc quản lý, kiểm soát và thúc đẩy sự phát triển chung của nền nông nghiệp sáng tạo ứng dụng công nghệ cao.
- Cơ sở lý thuyết nghiên cứu dựa trên mô hình về nông nghiệp sáng tạo ứng dụng công nghệ cao
- Các mô hình lý thuyết về nền nông nghiệp ứng dụng tri thức, thông tin và công nghệ
Phần tổng quan dưới đây sẽ tóm lược lại ba mô hình là cơ sở lý thuyết phát triển nghiên cứu được sử dụng rộng rãi nhất bao gồm mô hình nền nông nghiệp dựa trên nghiên cứu (NARS), mô hình nền nông nghiệp dựa trên kiến thức và thông tin (AKIS) và mô hình nền nông nghiệp sáng tạo (AIS) – đồng thời cũng là điểm khởi đầu cho việc thảo luận xem xét về các tiêu chí đánh giá phát triển công nghệ cao hay chính là đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp.
Mô hình NARS, được phát triển trong thập kỷ 70, đưa ra bởi trường phái kinh tế học tân cổ điển và kế thừa những thất bại của các nghiên cứu nông nghiệp vào thị trường tại các quốc gia đang phát triển. Mô hình NARS tập trung vào các cách thức tối ưu hoá các khoản đầu tư vào các tổ chức nghiên cứu của nhà nước – và tiếp đến, các trường đại học công lập – nhằm mục đích phát triển các công nghệ mới đẩy nhanh quá trình chuyển đổi và phát triển của nền nông nghiệp.
Một mô hình với cách tiếp cận rộng hơn nghiên cứu về áp dụng công nghệ cao, tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo được giới thiệu với tên gọi mô hình nền nông nghiệp dựa trên tri thức và thông tin (AKIS) trong thập kỷ 80. Ban đầu, AKIS được định nghĩa là “một mô hình bao gồm các tổ chức nông nghiệp hoặc các cá nhân, các mối liên hệ cũng như tương tác giữa họ, cùng tham gia vào các quá trình từ tạo lập, chuyển đổi, truyền tải, lưu giữ, thu nhận, tích hợp, khuếch tán và tận dụng tri thức và thông tin, với mục đích cùng hợp sức cho việc ra quyết định, giải quyết vấn đề và đổi mới sáng tạo trong nền nông nghiệp tại một quốc gia xác định hoặc vùng lãnh thổ” (Röling, 1990).
Mặc dù vậy, mô hình AKIS chỉ chủ yếu áp dụng trong hoàn cảnh thu hẹp hơn, coi nghiên cứu áp dụng công nghệ cao trong nông nghiệp là một đỉnh trong ba đỉnh của “tam giác tri thức” với hai đỉnh còn lại là khuyến nông và giáo dục nông nghiệp, và đặt đối tượng nông dân vào lòng của tam giác. Dù sao, mô hình AKIS vẫn thành công trong việc tập trung nghiên cứu tác động của áp dụng khoa học công nghệ tới việc phân tán tri thức và thông tin, nhấn mạnh đặc biệt vào mức độ quan trọng của việc lưu chuyển tri thức và thông tin giữa nhóm các nhà nghiên cứu, nhà giáo dục, và nhóm nông dân.
Vào thời điểm cuối thập niên 1990, các học giả nghiên cứu bắt đầu theo đuổi một cách tiếp cận khác biệt: mô hình AIS – hệ thống sáng tạo nông nghiệp. Áp dụng nổi bật gần đây nhất của cách tiếp cận này bởi World Bank (2006) đã định nghĩa một hệ thống sáng tạo là “một mạng lưới các tổ chức, doanh nghiệp, và cá nhân tập trung vào việc kiến tạo các sản phẩm mới, các quá trình mới, và các mô hình tổ chức mới của tổ chức kinh tế, đặt trong môi trường pháp luật và chính sách điều chỉnh hành vi và hiệu quả hoạt động của các đối tượng này”. Quan niệm về hệ thống sáng tạo không chỉ chú tâm vào việc tạo lập tri thức khoa học mới, mà còn bao gồm cả sự tương tác của các nhóm đối tượng tham gia vào quá trình sáng tạo. (World Bank, 2006).
Cách tiếp cận này đưa ra quan niệm về một “hệ thống sáng tạo quốc gia”, một quan niệm ra đời từ những nghiên cứu kinh tế học mang tính cách mạng trong thập niên 1980 (Lunvall, 1988; Freeman, 1988; Nelson, 1988; và Edquist, 1997). Khung nghiên cứu này được đưa vào các phân tích cho các nền nông nghiệp đang phát triển tập trung phê phán tính “đơn giản” và “phân luồng” trong mô hình nghiên cứu nông nghiệp mô hình NARS (Clark, 2002). Vì vậy, mô hình mới có những đặc điểm tương đồng trong mô hình AKIS như có thể thấy trong hai định nghĩa về AKIS và AIS đã nêu ở trên.
Tuy nhiên, các nghiên cứu ứng dụng mô hình AIS đến thời điểm hiện tại vẫn chủ yếu sử dụng để mô tả các quá trình sáng tạo và áp dụng công nghệ, thường là việc giới thiệu một công nghệ cụ thể. Các nỗ lực để mô tả và đi sâu vào toàn bộ hệ thống sáng tạo trong nền nông nghiệp của một quốc gia thực sự còn rất hiếm tính tới thời điểm hiện tại. Riêng có một ngoại lệ đó là nghiên cứu của Temel, Janssen, và Karimov (2002) về hệ thống sáng tạo nông nghiệp của Azerbaijan. Vì vậy, tiềm năng nghiên cứu ứng dụng cách tiếp cận mô hình hệ thống sáng tạo sẽ còn rất lớn cho các nghiên cứu về các nền nông nghiệp tại các quốc gia đang phát triển.
Mô hình nền nông nghiệp sáng tạo AIS - cơ sở lý thuyết cho việc phát triển các tiêu chí đánh giá
Nhằm xác định những thang đo có thể sử dụng để đo lường các yếu tố cần thiết, quá trình, và hiệu quả của quá trình sáng tạo áp dụng công nghệ cao, trước hết cần phát triển một mô hình lý thuyết với đầy đủ các thành phần cần thiết cho một hệ thống sáng tạo nông nghiệp cấp quốc gia, các liên kết giữa các thành phần đó, và đồng thời cả các điều kiện và chính sách cần thiết cho việc tạo lập môi trường hỗ trợ cho hoạt động đổi mới sáng tạo này.
Hình 1. Sơ đồ lý thuyết mô hình nền nông nghiệp sáng tạo
Nguồn: Arnold và Bell (2001)
Các thành phần cốt yếu của một hệ thống sáng tạo bao gồm (a) thành phần tri thức và giáo dục, (b) thành phần hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp, và (c) các cơ quan tổ chức trung gian kết nối hai khu vực này. Thành phần tri thức và giáo dục được minh hoạ trong phần trái của Hình 1 với hệ thống nghiên cứu và giáo dục về nông nghiệp. Thành phần hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp được minh hoạ trong phần phải của Hình 1 với các đối tượng thuộc chuỗi giá trị và các hoạt động áp dụng kết quả nghiên cứu từ khu vực tri thức và giáo dục, và đổi mới sáng tạo một cách độc lập. Giữa hai khu vực này là các cơ quan tổ chức trung gian – các dịch vụ tiện ích, cơ quan Nhà nước, nền tảng trung gian - thúc đẩy quá trình chuyển giao tri thức và thông tin giữa các khu vực.
Nhóm đối tượng nông dân đóng một vai trò quan trọng trong mô hình – với cả tư cách người thụ hưởng và người kiến tạo tri thức và thông tin, người sản xuất và tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ nông nghiệp, cầu nối giữa các thành phần, và cũng là một mắt xích của chuỗi giá trị.
Nằm bên ngoài mô hình này, vẫn tồn tại các yếu tố ảnh hưởng đóng vai trò quan trọng như kết nối với các lĩnh vực khác của nền kinh tế (sản xuất và dịch vụ); chính sách nền tảng về khoa học và công nghệ; các tổ chức quốc tế, các viện nghiên cứu, thị trường; và hệ thống chính trị.
- Các nghiên cứu trước đây về tiêu chí đánh giá và thang đo liên quan đến đổi mới sáng tạo nói chung và trong nông nghiệp
Mục đích của việc đưa ra mô hình trong phần nội dung trước là để xác định các thành phần cơ bản của một nền nông nghiệp sáng tạo và từ đó chuyển thành các tiêu chí đánh giá đo lường đầu vào, kết quả, và quá trình đổi mới sáng tạo. Trong phần này, các tóm lược về các nghiên cứu trước đây sẽ giới thiệu về các tiêu chí và thang đo cho một hệ thống sáng tạo cấp rộng hơn ở tầm một quốc gia và sau đó cụ thể hơn cho lĩnh vực nông nghiệp.
Các tiêu chí cơ bản đánh giá Khoa học, Công nghệ và Sáng tạo đổi mới
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đi tiên phong trên trường quốc tế về những nỗ lực phát triển các tiêu chí cho đổi mới sáng tạo từ năm 1963. Việc cho ra đời Hướng dẫn Tiêu chuẩn Bảng hỏi cho việc phát triển các Nghiên cứu Thực nghiệm đã định hình một phương pháp phổ biến cho việc thu thập và phân tích các tiêu chí trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, và sáng tạo đổi mới trong cộng đồng các quốc gia thành viên của OECD. Hướng dẫn này là nền tảng cho việc thiết kế Đánh giá Khoa học, Công nghệ và Công nghiệp, một đánh giá tổng hợp dựa trên dữ liệu về sáng tạo đổi mới của các nước thành viên OECD từ năm 1981. Đánh giá này đã cung cấp các kết quả đo lường cấp quốc gia về các vấn đề nghiên cứu và phát triển, nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, mức độ thực hiện quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ, nền tảng công nghệ thông tin và truyền thông, hoạt động chuyển giao tri thức trong thương mại và đầu tư, và về tác động của tri thức tới năng suất lao động. Tiếp sau đó đã có thêm nhiều các tiêu chí mới được bổ sung dựa trên nền tảng cơ bản để ghi nhận các xu hướng mới nổi trong khu vực.
OECD đã đặt nhiều nỗ lực trong việc thực hiện thu thập dữ liệu và phân tích gắn liền hơn nữa với cách tiếp cận về mô hình hệ thống đổi mới sáng tạo được giới thiệu trong Hướng dẫn Oslo và Hướng dẫn Bogota, một tài liệu được điều chỉnh đặc biệt cho khối các nước đang phát triển tại Mỹ La-tinh. Các tài liệu này cố gắng hệ thống hoá các tiêu chí và cách thức xây dựng các tiêu chí đổi mới trong công nghệ và đưa ra một phương pháp chung cho việc đo lường và phân tích các quá trình đổi mới sáng tạo.
Các hướng dẫn phía trên cũng giới thiệu về một cơ sở dữ liệu trực tuyến về đổi mới sáng tạo trong khu vực Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê quản lý bởi Mạng lưới RICYT. Cơ sở dữ liệu RICYT cung cấp các dữ liệu cụ thể của từng quốc gia về các yếu tố đầu vào Khoa học và Công nghệ bao gồm nguồn lực tài chính và nhân sự, các kết quả đầu ra (các bằng sáng chế và công bố), và các yếu tố mang tính điều kiện (đặc điểm về nhân khẩu và kinh tế). Hệ thống các tiêu chí RICYT được tổng hợp dựa trên dữ liệu từ các doanh nghiệp, bao gồm cả các yếu tố như kết quả sản xuất kinh doanh, độ lớn và qui mô của các hoạt động, các khoản đầu tư cho đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, các kết quả của quá trình đối mới sáng tạo cụ thể về sản phẩm và quá trình, và mối liên hệ với hệ thống đổi mới sáng tạo tầm quốc gia, và đánh giá của riêng từng doanh nghiệp về các chính sách đổi mới sáng tạo của quốc gia đó.
Bảng 1. Một số kết quả tiêu chí đánh giá đổi mới sáng tạo tại các quốc gia khu vực châu Á giai đoạn 2000 - 2006
Tiêu chí
|
Môi trường sáng tạo
đổi mới
|
Hiệu quả sáng tạo
đổi mới
|
Mức độ
cạnh tranh
|
Đầu tư kiến tạo tri thức nông
nghiệp
|
Thang đo
|
1-10
|
0-1
|
1-7
|
% GDP
|
Năm
|
2006
|
2006
|
2006
|
2000
|
Ấn Độ
|
2.71
|
0.17
|
4.44
|
0.48
|
Trung Quốc
|
4.26
|
0.27
|
4.24
|
0.37
|
Việt Nam
|
2.69
|
-
|
3.89
|
0.67
|
Thái Lan
|
4.88
|
-
|
4.58
|
-
|
Malaysia
|
5.69
|
-
|
5.11
|
3.64
|
Indonesia
|
2.96
|
-
|
4.26
|
-
|
Nguồn: KAM (2006); CEC (2006); WEF (2006); ASTI (2006)
Đánh giá Đổi mới Sáng tạo Châu Âu (EIS) cũng đưa ra hệ thống những phân tích tương tự với các tiêu chí về đổi mới công nghệ rộng khắp nền kinh tế để đánh giá về năng lực đổi mới sáng tạo nói chung của các quốc gia thành viên khu vực Cộng đồng chung Châu Âu (EU), đồng thời là cơ sở hoàn thiện các chính sách đang được xây dựng trong khu vực (CEC, 2006; Hollanders và Arundel, 2004). Đánh giá tổng hợp các tiêu chí (trong khoảng từ 12 – 20 tiêu chí, phụ thuộc vào mức độ sẵn có của dữ liệu) theo bốn nhóm: nguồn nhân lực; mức độ kiến tạo tri thức mới; mức độ chuyển giao và ứng dụng tri thức; và nguồn tài chính, thị trường cho đổi mới sáng tạo. Không giống như Đánh giá của OECD, mỗi tiêu chí của EIS được chia thành các tiêu chí nhỏ.
Cơ sở dữ liệu Tri thức vị Phát triển (K4D) của World Bank là một công cụ so sánh được thiết kế để cổ vũ các quốc gia đang phát triển chuyển đổi nền kinh tế trở thành nền kinh tế tri thức. Khung lý luận của cơ sở dữ liệu này mô tả một nền kinh tế tri thức bao gồm bốn trụ cột: (1) chế độ và chính sách hỗ trợ kinh tế của chính phủ, (2) giáo dục, (3) đổi mới sáng tạo, và (4) công nghệ thông tin và truyền thông (KAM, 2006). Có khoảng 80 tiêu chí được đo lường dựa trên cơ sở dữ liệu của 132 quốc gia được chia thành bốn nhóm như trên và làm tròn về thang điểm từ 0 đến 10.
Các đánh giá được thảo luận trên đây đã đưa ra một số những điểm quan trọng trong việc thiết kết hệ thống các tiêu chí đánh giá nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ đổi mới sáng tạo tại các quốc gia đang phát triển.
Thứ nhất, các đánh giá trên đã thực hiện mô tả đóng góp của đối mới sáng tạo, mặc dù được đo lường cụ thể, nhưng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội; đồng thời theo dõi được các tiêu chí này theo thời gian.
Thứ hai, các đánh giá này đã cho thấy việc sử dụng các cơ sở dữ liệu khác nhau
– từ thống kê quốc gia cho tới ý kiến chuyên gia – có thể kết hợp cho việc đo lường các yếu tố đầu vào, kết quả và quá trình đổi mới sáng tạo ứng dụng công nghệ và tri thức.
Thứ ba, các đánh giá này đều có những điểm chung và đồng nhất về việc sử dụng công cụ và phương pháp trong việc tổng hớp và phân tích các yếu tố đối mới sáng tạo mà có thể trở thành cơ sở để phát triển hệ thống các tiêu chí đánh giá cho nền nông nghiệp.
Các tiêu chí đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp
Cụ thể với đối tượng nghiên cứu là nền nông nghiệp tại các quốc gia đang phát triển, các nghiên cứu của Pardey và Roseboom (1989) và Parday, Roseboom, và Anderson (1991) đã cho thấy những cố gắng đầu tiên trong việc xây dựng các tiêu chí có tính hệ thống liên quan đến nông nghiệp. Cụ thể hơn, các nghiên cứu của họ đã phát triển nền tảng lý thuyết cho việc đo lường hoạt động đầu từ theo khung NARS trong việc nghiên cứu và đánh giá một số vấn đề có liên quan như mức độ sẵn có và độ tin cậy của dữ liệu, và khả năng so sánh theo thời gian và không gian. Bộ Tiêu chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp (ASTI) đã kế thừa các kết quả nghiên cứu đó, tổng hợp và phân tích các cơ sở dữ liệu quốc tế có thể so sánh được về việc đầu tư phát triển của các quốc gia cho hoạt động nghiên cứu phát triển trong nông nghiệp (ASTI 2005).
Ngoài ra, một số các đánh giá nghiên cứu khác cũng có những kết luận đáng chú ý. Nghiên cứu của Evanson (2003) đo lường kết quả đổi mới sáng tạo với bộ tiêu chí được thiết kế để đo lường nguồn lực “vốn đổi mới sáng tạo” và “vốn ứng dụng” dựa vào các nhóm tiêu chí về (1) học vấn của nam giới trưởng thành, (2) đầu tư cho nghiên cứu nông nghiệp/giá trị nông nghiệp gia tăng, (3) giá trị mở rộng nông nghiệp/giá trị nông nghiệp gia tăng, (4) FDI/GDP, (5) Chi phí nghiên cứu phát triển trong các doanh nghiệp sản xuất/giá trị gia tăng, và (6) mức độ chặt chẽ của các chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Coelli và Rao (2003) đã thực hiện một nghiên cứu đo lường về kết quả đổi mới sáng tạo bằng Phân tích Chỉ số Malmquist tăng trưởng năng suất (TFP) trong nông nghiệp tại 93 quốc gia trong khoảng thời gian từ 1980 đến 2000, đưa ra phân tích về cả mức độ hiệu quả kỹ thuật và thay đổi kỹ thuật. Một số nghiên cứu khác cũng nỗ lực trong việc tổng hợp và phân tích các tiêu chí ít liên quan hơn như hiệu quả nghiên cứu của các tổ chức nghiên cứu về nông nghiệp (Peterson và Perrault, 1998); năng lực nghiên cứu công nghệ sinh học tại hệ thống NARS tại các quốc gia đang phát triển (Byerlee và Fischer, 2000, 2002); đầu tư của khu vực tư nhân cho hoạt động nghiên cứu nông nghiệp tại Châu Á (Pray và Fuglie, 2001); và các chính sách quản lý an toàn sinh học (FAO, 2003; AGBIOS, 2003).
Bên cạnh các nghiên cứu về thành phần nghiên cứu và giáo dục, một số học giả cũng đã đưa ra những đánh giá về các thành phần còn lại với những tiêu chí hữu dụng. Rivera và Alex (2004) đã tổng hợp một hệ thống đa dạng các trường hợp trong đó thực hiện đo lường từ các nguồn lực cho tới quá trình cho việc mở rộng hoạt động nông nghiệp. Nghiên cứu của Kaplinsky và Morris (2001) đưa ra hình thức xác định và tổng hợp dữ liệu cho một số tiêu chí cơ bản đánh giá kết quả thực hiện chuối giá trị nông nghiệp và đóng góp của chúng tới sự phát triển nông nghiệp nói chung. Nghiên cứu của Segnestam (2002) xem xét vô số các nỗ lực quốc tế trong việc thiết kế các tiêu chí về
môi trường và phát triển bền vững, và đưa ra những nhận định về một số mặt kỹ thuật của các tiêu chí này – về khung lý thuyết, định nghĩa, và tiêu chí lựa chọn – và cả các mặt ứng dụng – mức độ sẵn có, chất lượng và hình thức thu thập dữ liệu, các công cụ thực hiện phân tích và kết luận. Tuy nhiên, có rất ít các nghiên cứu có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu cho một hệ thống sáng tạo như một nền nông nghiệp đang phát triển.
Hình 2. Giá trị trung bình của các tiêu chí Thay đổi Hiệu quả Kỹ thuật, Thay đổi Tiến bộ Công nghệ và Thay đổi Năng suất nhân tố tổng hợp trong nông nghiệp giai đoạn 1980 - 2000
Nguồn: Coelli và Rao (2003)
Những nỗ lực trong việc phát triển các tiêu chí đo lường đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp cũng cần được nhìn nhận trong một tầm nhìn rộng hơn với những nghiên cứu gần đây xây dựng cơ sỡ dữ liệu phục vụ cho việc đánh giá và điều chỉnh cho lĩnh vực nông nghiệp. Việc chuyển từ các hoạt động cho vay theo hình thức dự án sang các gói hỗ trợ tài chính như là một cách các nhà tài trợ khuyến khích hơn nữa việc thu thập các dữ liệu về hiệu quả hoạt động nông nghiệp. Vào năm 2006, tổ chức Tài trợ Toàn cầu cho Phát triển Nông thôn đã thực hiện một nghiên cứu về “Các tiêu chí cơ bản cho phát triển nông nghiệp và nông thôn”, có bao gồm các tiêu chí liên quan đến việc nghiên cứu và mở rộng các hoạt động nông nghiệp. Những nỗ lực này được thực hiện dựa trên những tổng hợp các tiêu chí liên quan từ các nghiên cứu của World Bank (1999, 2000) và của Okidegbe (200) cũng như từ các dự án đặc thù cho khu vực nông nghiệp (AKIS 2000; Rajalahti, Woelcke, and Pehu, 2005; Marchant 2006).
- Kết luận về xây dựng tiêu chí đánh giá nền nông nghiệp sáng tạo
Tiêu chuẩn lựa chọn tiêu chí
Các tiêu chí đổi mới sáng tạo được đề xuất lựa chọn gắn với bốn thành phần trong mô hình lý thuyết phía trên bao gồm: (a) thành phần tri thức và giáo dục, (b) thành phần hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp, và (c) các cơ quan tổ chức trung gian kết nối hai thành phần này, và (d) các chính sách, tổ chức và điều kiện nền tảng. Các tiêu chuẩn lựa chọn được cân nhắc đến như dưới đây.
Thứ nhất, các tiêu chí cần gắn với một vấn đề có thể đo lường được. Tuy nhiên, điều này không giới hạn việc các tiêu chí bị bó hẹp trong các tiêu chí thông thường về nguồn lực và kết quả như tổng ngân sách cho nghiên cứu nông nghiệp, hay tỉ lệ tăng trưởng khu vực nông nghiệp. Nhóm các tiêu chí đánh giá được quá trình cũng giữ một vai trò quan trọng trong việc thấy hiểu cách thức đổi mới sáng tạo được tạo lập trong hệ thống, và làm thế nào quá trình học hỏi và thay đổi đóng góp vào hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo. Vì vậy, các thang đo như số lượng sáng tạo công nghệ được thử nghiệm hoặc áp dụng bởi mỗi nông dân, hay số lượng các sáng tạo sản phẩm và quá trình được thử nghiệm hoặc áp dụng bởi mỗi doanh nghiệp, rất quan trọng trong việc ghi nhận những nỗ lực của cá nhân và tổ chức trong việc thẩm thấu và ứng dụng tri thức và thông tin.
Thứ hai, các tiêu chí nhất thiết phải gắn liền với phân tích đổi mới sáng tạo trong một nền nông nghiệp tại quốc gia đang phát triển. Vì vậy, các tiêu chí thường được chấp nhận trong các đo lường đánh giá đổi mới sáng tạo tại các quốc gia công nghiệp, công nghiệp hoá hay sản xuất không phải lúc nào cũng có thể giữ lại. Lấy ví dụ, vai trò của các phát minh, thương hiệu, và quỹ đầu tư mạo hiểm có thể sẽ không giữ vai trò đặc biệt trong việc đánh giá đổi mới sáng tạo trong hệ thống dựa vào việc ứng dụng theo mô hình sẵn có và học tập áp dụng, đồng thời được hỗ trợ đặc biệt từ các nguồn tài chính công cho khoa học, công nghệ, và đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, các tiêu chí cần được đo lường từ cơ sở dữ liệu được xác định, không chỉ đơn thuần là các dữ liệu được tổng hợp lại. Cụ thể hơn, cần có các cơ sở dữ liệu có được từ các nguồn tin cậy xem xét những đặc trưng của nền nông nghiệp tại quốc gia đang phát triển. Vì vậy, mỗi nỗ lực phát triển các tiêu chí đổi mới sáng tạo sẽ cần phải đủ năng lực thu thập các dữ liệu thô từ các nguồn như các công bố thống kê dựa trên các phương pháp tổng hợp và phân tích được chấp thuận rộng rãi, hoặc các ý kiến chuyên gia mang tính định tính với các nhóm đối tượng có được những nhận định rõ ràng về các đặc trừng của quá trình và tri thức đổi mới sáng tạo. Các dữ liệu thô cần được đi kèm với mô tả cụ thể về cách thức thu thập, lấy ví dụ như số đường điện thoại trên mỗi đơn vị diện tích hay số lượng các phát minh sáng kiến công nghệ cho nông nghiệp được ra đời hàng năm. Ý kiến chuyên gia có thể bao gồm chất lượng của các tổ chức nghiên cứu nông nghiệp và cần được chuyển đổi sang các đơn vị có tính đo lường như công cụ thang đo Likert.
Tính chất dữ liệu và nguồn dữ liệu
Với những tiêu chuẩn lựa chọn đã phân tích ở trên, các tiêu chí được sử dụng cần phải dựa trên các cơ sở dữ liệu có độ tin cậy với các phương thức thu thập dữ liệu rõ ràng. Một số các nguồn dữ liệu được đề xuất bao gồm:
Các nguồn thông tin dữ liệu quốc tế (dữ liệu được tổng hợp từ cơ sở dữ liệu đa quốc gia):
- Các cơ sở dữ liệu tập trung vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội như Hệ thống các tiêu chí Phát triển của Ngân hàng Thế giới, hay cơ sở dữ liệu FAOSTAT của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp Quốc
- Các cơ sở dữ liệu chuyên biệt như ASTI của CGIAR (2005), JEPS (2004)
Các nguồn thông tin dữ liệu của Chính phủ(dữ liệu được tổng hợp trực tiếp từ các văn bản và thống kê của chính phủ):
- Niêm giám thống kê, cơ sở dữ liệu quốc gia, và các báo cáo quốc gia chính thức về hiệu quả kinh tế, hiệu quả hoạt động của các lĩnh vực, các ngành
- Dữ liệu về ngân sách Trung Ương và cụ thể phân bổ ngân sách
Các nguồn thông tin dữ liệu của ngành, lĩnh vực (dữ liệu được tổng hợp trực tiếp từ các văn bản của doanh nghiệp, ngành):
- Dữ liệu từ các điều tra khảo sát cấp doanh nghiệp và lĩnh vực về đầu tư phát triển, đổi mới sáng tạo sản phẩm và quá trình, thực tế quản lý đổi mới sáng tạo
- Các báo cáo phân tích doanh nghiệp và thị trường
Các điều tra khảo sát:
- Dữ liệu từ điều tra khảo sát hộ gia đình về thu nhập và chi tiêu, thực tế ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp
Ý kiến chuyên gia:
- Dữ liệu từ ý kiến của chuyên gia về chính sách nông nghiệp, xu hướng đầu tư trong nông nghiệp, hành vi của các gia đình khu vực nông thôn, và các chủ đề khác có liên quan
Các nguồn thông tin dữ liệu khác:
- Dữ liệu trích xuất từ các nghiên cứu về chính sách nông nghiệp, xu hướng đầu tư trong nông nghiệp, hành vi của các gia đình khu vực nông thôn, và các chủ đề khác có liên quan
- Các văn bản dữ liệu từ các dự án phát triển nông thôn bao gồm mô tả dự án, báo cáo
đánh giá và điều chỉnh, và các đo lường tác động
Phương thức thực nghiệm
Có thể lựa chọn nhiều phương thức để tiến hành nghiên cứu thực nhiệm – riêng từng phương thức hoặc kết hợp nhiều phương thức khác nhau – để phát triển hệ thống các tiêu chí đánh giá đổi mới sáng tạo cho nền nông nghiệp tại một quốc gia.
Phương thức thứ nhất có thể sử dụng dữ liệu từ các nguồn thông tin dữ liệu quốc tế như đã đề cập ở trên để thiết lập hệ thống các tiêu chí đo lường đổi mới sáng tạo giữa
các quốc gia. Với mục đích kiểm định tính hướng đích và mức độ gia tăng với các công cụ thống kê như phân tích nhân tố, các tiêu chí này có thể sử dụng làm nền tảng đưa ra hệ thống các cơ sở so sánh.
Phương thức thức hai có thể tập trung vào việc thu thập và phân tích các tiêu chí cụ thể và khó đo lường hơn như đầu vào, quá trình, và hiệu quả của mô hình AIS từ các nguồn thông tin dữ liệu khác nhau như từ chính phủ, doanh nghiệp, và các nguồn khác như đã đề cập ở trên.
Phương thức thứ ba hướng đến sự phát triển và gốc rễ của các khía cạnh thông qua việc sử dụng các điều tra khảo sát đi sâu sử dụng bảng hỏi để có được các thông tin chi tiết về các yếu tố đầu vào, đầu ra và quá trình từ các nhóm đối tượng trong mô hình. Ngoài ra, các bảng hỏi với ý kiến chuyên gia cũng là một phương pháp không nên đánh giá thấp: có rất nhiều các nghiên cứu quốc tế được sử dụng kết quả rộng rãi, chủ yếu dựa vào đánh giá của các chuyên gia, ví dụ như Chỉ số Cạnh tranh Toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Alston, J. M., P. G. Pardey, và M. J. Taylor (2001). Agricultural Science Policy: Changing Global Agendas. Washington, DC: IFPRI/Johns Hopkins University Press.
- Chema, S., E. Gilbert, and J. Roseboom (2003). “A Review of Key Issues and Recent Experiences in Reforming Agricultural Research in Africa.” Research Report 24. ISNAR, The Hague.
- Clark, N. (2002). “Innovation Systems, Institutional Change and the New Knowledge Market: Implications for Third World Agricultural Development.” Economics of Innovation and New Technology 11(4–5): 353–368.
- Edquist, C. (1997). Systems of Innovation Approaches: Technologies, Institutions and Organizations. London: Pinter.
- Lunvall (1988). “Innovation as an Interactive Process: From User–supplier Interaction to the National System Of Innovation.” In Technical Change and Economic Theory, ed. G. Dosi, C. Freeman, R. Nelson, G. Silverberg, and L. Soete. London: Pinter.
- Nguyễn Văn Phượng (2017). “Phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam”. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Nghệ An 2017(3). 12-17.
- Rivera, W. M., G. Alex, J. Hanson, and R. Birner (2006). Enabling Agriculture: The Evolution and Promise of Agricultural Knowledge Frameworks. Paper presented at the 2006 Conference of the Association for International Agricultural Education and Extension in Clearwater Beach, Florida, May 14–18, 2006.
- Röling, N. (1990). ‘The Agricultural Research-technology Transfer Interface: A Knowledge Systems Perspective.’ In Making the Link—Agricultural Research and Technology Transfer in Developing Countries, ed. D. Kaimowitz, 1–42. Boulder, CO: Westview Press.
- Spielman, D. J. (2006). “A Critique of Innovation Systems Perspectives on Agricultural Research in Developing Countries.” Innovation Strategy Today 2(1). 25–38.
- World Bank (2006). Enhancing Agricultural Innovation: How To Go beyond the Strengthening of Research Systems. World Bank: Washington, DC.