Đến lúc phải chuyển hướng thu hút FDI
Tác giả: Quế Thanh
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng những bất ổn kinh tế, cả ở trong và ngoài nước, đang ảnh hưởng đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam.
Mục tiêu đề ra cho năm 2012 là thu hút 15 tỉ USD vốn FDI và giải ngân khoảng 11 tỉ USD xem ra không dễ thực hiện. Theo số liệu mới được Cục Đầu tư nước ngoài công bố, tính đến ngày 20-2, cả nước có 65 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 910 triệu USD và 25 lượt dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm là 320 triệu USD.
Như vậy tổng vốn FDI hai tháng đầu năm nay là 1,23 tỉ USD, chỉ bằng 45% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, tình hình cũng không hẳn quá xấu khi mà vốn giải ngân không sụt giảm nhiều (chỉ khoảng 100 triệu USD) so với cùng kỳ năm trước, đạt mức 1 tỉ USD.
Trên đây chỉ là vài con số phác họa về dòng vốn FDI mới, còn số vốn đã vào Việt Nam đang kinh doanh thế nào, hiệu quả ra sao, đóng góp gì cho sự phát triển kinh tế nói chung, đó mới là điều quan trọng.
Mới đây, khi công bố Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2011, nhóm nghiên cứu cũng đưa ra kết quả cuộc khảo sát thường niên lần thứ hai về doanh nghiệp FDI (1.970 doanh nghiệp FDI từ 45 nước trên thế giới đang hoạt động tại Việt Nam đã tham gia cuộc khảo sát này). Kết quả cho thấy phần nào bức tranh toàn cảnh khu vực FDI tại nước ta và là những thông tin cần thiết để các nhà làm chính sách tham khảo nhằm đề ra những quyết sách mới phù hợp với mục tiêu thu hút FDI có chọn lọc trong thời gian tới.
Nhận diện khu vực FDI
Doanh nghiệp FDI hoạt động tại Việt Nam chủ yếu đến từ các nước và lãnh thổ trong khu vực như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản… với quy mô khá nhỏ nếu xét theo tiêu chuẩn quốc tế. 75% số doanh nghiệp FDI có dưới 300 lao động, trong đó hơn một phần ba có dưới 50 lao động. Nếu xét về vốn, có đến 63% doanh nghiệp FDI có vốn dưới 2,5 triệu USD.
Hơn 85% số doanh nghiệp FDI ở Việt Nam là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đây là điều đáng quan tâm vì nếu đi ngược thời gian, trở về năm 1988, khi Việt Nam mở cửa cho đầu tư nước ngoài, loại hình này chưa có bao nhiêu, mà chủ yếu là hình thức liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Sau nhiều lần nước ta sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài, đến những năm cuối thập niên 90, loại hình doanh nghiệp này mới có “đất” để phát triển.
Một thông tin khác là 65% doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chỉ 30% kinh doanh dịch vụ. Các con số này cũng giải tỏa một số ý kiến lo ngại rằng doanh nghiệp FDI đang chuyển dần đầu tư sang lĩnh vực bất động sản (chỉ có không đến 1% số doanh nghiệp FDI được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực này, không tính số doanh nghiệp đầu tư ngoài ngành vào bất động sản).
Hiệu ứng lan tỏa thấp
Số liệu khảo sát cho thấy phần lớn doanh nghiệp FDI sản xuất để xuất khẩu. Ngay cả khi bán ở thị trường nội địa thì khách hàng chính của họ cũng là cá nhân hoặc doanh nghiệp nước ngoài.
Tương tự ở chiều ngược lại, doanh nghiệp FDI nhập khẩu rất lớn cho sản xuất. Không khác với kết quả khảo sát năm ngoái, hiệu ứng lan tỏa của khu vực FDI sang khu vực doanh nghiệp trong nước còn rất hạn chế. Dòng vốn FDI không hỗ trợ được bao nhiêu cho việc phát triển thị trường nội địa. Vì sao? Câu trả lời là doanh nghiệp FDI nhập khẩu tới 57,5% giá trị hàng hóa, dịch vụ trung gian, còn mua trong nước chỉ khoảng 40%, và đáng nói hơn là chỉ 2% trong số này được mua từ khu vực tư nhân. Chính sự thiếu liên kết này đã khiến các doanh nghiệp trong nước không có cơ hội tiếp thu những lợi thế của các doanh nghiệp FDI.
Chi phí lao động là lợi thế quan trọng nhất
Có thể nói phần lớn các doanh nghiệp FDI chọn Việt Nam để đầu tư đều dựa vào lợi thế về chi phí lao động và sự ổn định chính trị. Nhóm khảo sát cho biết các doanh nghiệp FDI thường nhắm vào các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất hơn là cân nhắc đến chất lượng điều hành kinh tế của chính quyền địa phương.
Thực vậy, ngoài hai yếu tố kể trên các doanh nghiệp FDI còn nhắm đến những ưu đãi về thuế và đất đai, sự sẵn có của các khu công nghiệp, nguồn nguyên liệu, các dịch vụ trung gian… như là những thông số quan trọng trong việc cân nhắc và ra quyết định đầu tư.
Vì sao các nhà đầu tư nước ngoài lại ít quan tâm đến chất lượng điều hành kinh tế tại các địa phương? Điều này có thể do tính đặc thù của các doanh nghiệp FDI vào nước ta trong thời gian qua phần lớn có mô hình hoạt động chi phí thấp, ở đoạn cuối của chuỗi giá trị toàn cầu, do đó họ chỉ chú trọng đến việc cắt giảm chi phí.
Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI lại không đánh giá cao việc kiểm soát tham nhũng ở các cấp chính quyền và họ cũng cho điểm thấp ở các tiêu chí điều hành khác như khả năng tiếp cận đất đai, các tài liệu quy hoạch, việc thực thi hợp đồng… Thực trạng này cần được các nhà hoạch định chính sách quan tâm nếu như muốn nâng chất lượng dòng vốn FDI.
Tâm lý kém lạc quan đang phổ biến
Kết quả khảo sát cũng chỉ ra rằng các doanh nghiệp FDI đang kém lạc quan về kế hoạch đầu tư và kinh doanh trong hai năm tới cho dù hiệu quả hoạt động trong năm qua của họ vẫn tốt hơn năm trước đó (cả doanh thu, lợi nhuận đều tăng). Chỉ 38% số doanh nghiệp cho biết sẽ mở rộng quy mô kinh doanh tại Việt Nam, thấp hơn nhiều so với con số 66% của năm trước đó. Điều đáng nói là tâm lý ít lạc quan này lại thể hiện rõ nét ở các doanh nghiệp sản xuất, vốn đang hoạt động hiệu quả hơn khu vực dịch vụ. Và nhân tố chính ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động được các doanh nghiệp chỉ ra là các điều kiện thị trường, sau đó mới đến các nhân tố khác như chính sách nhà nước, chất lượng nguồn nhân lực…
Cần một sự thay đổi
Theo Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia, mặc dù kinh tế thế giới năm nay được dự báo vẫn chưa hết khó khăn, nhưng dòng vốn FDI toàn cầu sẽ tiếp tục phục hồi và chảy về các vùng trũng đầu tư nếu được tạo điều kiện thuận lợi.
Ở trong nước, khi mà chính sách tài khóa và tiền tệ còn bị thắt chặt, nguồn vốn trong nước bị hạn chế thì dòng vốn FDI vẫn đóng vai trò quan trọng trong đầu tư phát triển.
Trong những năm qua, việc phân cấp đầu tư, tuy là chủ trương đúng nhưng do thiếu kiểm soát đã dẫn đến tình trạng các địa phương “chạy đua” thu hút đầu tư bằng mọi giá – một cuộc đua xuống đáy như nhiều chuyên gia kinh tế đã nhận xét. Hệ quả là chúng ta chỉ thu hút được các nhà đầu tư nhỏ, có công nghệ sản xuất đơn giản, không có sức cạnh tranh về công nghệ mà chỉ trông vào việc cắt giảm chi phí để hoạt động như kết quả khảo sát đã chỉ ra ở phần trên.
Thực trạng và những thách thức trong lĩnh vực thu hút FDI đã được các quan chức ngành đầu tư nhìn ra và hứa hẹn sẽ có nhiều thay đổi trong các phát biểu gần đây. Để đạt được mục tiêu thu hút 15 tỉ USD vốn FDI trong năm nay cần có những thay đổi cơ bản trong chính sách thu hút FDI, cụ thể là phải tập trung đào tạo nguồn nhân lực để tăng năng suất lao động, đáp ứng được yêu cầu của các ngành sản xuất có giá trị gia tăng cao. Đồng thời, việc cải thiện cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh cũng là những thách thức cần vượt qua để tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất, đủ sức hấp dẫn các doanh nghiệp FDI mới và đảm bảo cho các doanh nghiệp đang hoạt động phát huy hiệu quả cao nhất.
Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần